Lưu trữ tác giả: Nguyễn Võ

Chuyển dòng sông cứu Valencia khỏi ngập lụt

Xe cộ chất đống lên nhau sau trận lũ lụt ở Valencia. Ảnh: David Ramos
Xe cộ chất đống lên nhau sau trận lũ lụt ở Valencia. Ảnh: David Ramos

Xe cộ chất đống lên nhau sau trận lũ lụt ở Valencia. Ảnh: David Ramos

Khu tự trị Valencia nằm ở vùng ven biển phía đông Tây Ban Nha trải qua một trong những trận lụt tồi tệ nhất hàng thập kỷ sau đợt mưa xối xả tuần trước. Theo cơ quan khí tượng, lượng mưa bằng gần một năm trút xuống khu vực chỉ trong 8 giờ, gây ra thiệt hại chưa từng có và khiến hơn 200 người thiệt mạng.

Trận mưa bão bắt đầu hôm 29/10 là kết quả của hiện tượng thời tiết nguy hiểm gọi là DANA ở Tây Ban Nha. Viết tắt của “áp thấp biệt lập ở độ cao lớn”, DANA xảy ra khi không khí nóng bên trên biển Địa Trung Hải gặp không khí lạnh trong khí quyển, gây ra điều kiện khí hậu biến động dẫn tới mưa lớn. Theo giới chuyên gia, mô hình này đang trở nên ngày càng phổ biến do quá trình ấm lên toàn cầu.

Trong khi tỉnh Valencia dễ bị ngập lụt, người dân địa phương không có sự chuẩn bị một phần do cảnh báo khẩn cấp được đưa ra quá trễ. Nhiều người nhận được cảnh báo khi đường phố đã ngập thành sông. Cư dân cũng không đề phòng sự kiện như vậy vì tin rằng khu vực an toàn trước lũ lụt sau trận Đại hồng thủy Valencia năm 1957. Trận lũ lụt đó đã thúc đẩy chính quyền địa phương thực hiện một dự án cực kỳ tham vọng nhằm chuyển dòng sông Túria chảy qua Valencia ra xa thành phố.

Đánh giá ban đầu cho thấy hôm 29/10, lòng sông ở phía nam thành phố Valencia giúp giảm thiểu thiên tai. Dù còn quá sớm để phân tích tổng quát thảm họa lũ lụt, một số chuyên gia cho rằng thành phố có thể bị ngập hoàn toàn nếu không có dự án chuyển dòng sông mang tên Plan Sur.

Valencia từng đối mặt một số thảm họa tương tự trong vài thế kỷ qua. Thành phố Valencia nằm ở vùng thấp bên cạnh Albufera, phá nước ngọt lớn nhất ở Tây Ban Nha. Điều này khiến khu vực đặc biệt dễ bị ngập lụt. Vài cơn bão DANA từng gây thảm họa trong vùng suốt những thập kỷ qua. Lần tồi tệ nhất là trận Đại hồng thủy Valencia năm 1957. Trong trận lũ lụt này, khoảng 3/4 thành phố chìm dưới nước và hơn 80 người thiệt mạng.

Bão DANA tương đối phổ biến ở Địa Trung Hải. Sự tiếp xúc của không khí ấm và lạnh dẫn tới hình thành đám mây mưa dày đặc. Khi vào đất liền, chúng có thể di chuyển chậm qua khu vực rộng lớn. Loại bão như vậy thường gây lũ lụt nghiêm trọng.

Valencia từng trải qua cuộc lột xác hoàn toàn từ trận lũ lụt năm 1957. Sau năm đó, nhà chức trách lên kế hoạch chuyển dòng Túria, sông dài nhất Tây Ban Nha, quanh vùng ngoại ô phía tây nam thành phố và hướng ra biển Địa Trung Hải. Dự án Plan Sur được soạn thảo nhằm ngăn chặn thiên tai lặp lại. Về cơ bản, mục tiêu của dự án là dẫn hướng dòng sông ra xa thủ phủ của tỉnh.

Là thành tựu ấn tượng của kỹ thuật thủy lợi, quá trình chuyển dòng kết thúc vào năm 1973. Ngày nay, lòng sông mới có lưu lượng hơn 5.000 m3 nước. So với nó, dòng sông cũ chảy qua thành phố có thể chứa 3.700 m3 nước trước khi tràn bờ. Trận lũ lụt gần nhất đánh dấu lần tràn bờ đầu tiên từ dự án Plan Sur. “Nếu không chuyển hướng dòng sông, Valencia sẽ bị ngập hoàn toàn từ bắc tới nam”, Federico Bonet ở Hiệp hội kỹ sư cầu đường và kênh đào Valencia, cho biết.

Dù dự án chuyển dòng sông có thể cứu nhiều người sống ở trung tâm Valencia, vẫn còn nhiều câu hỏi về tác động chung của nó. Lòng sông mới ở phía nam có thể chứa lượng nước lớn hơn, có nghĩa theo lý thuyết, người dân ở khu vực đó phải an toàn. Tuy nhiên, trong quá khứ, nhiều chính trị gia và nhà khoa học cảnh báo dự án Plan Sur chưa hoàn thiện và có khả năng dẫn tới thảm họa.

Trong quá trình xây dựng lòng sông thuộc dự án Plan Sur, nhà chức trách dự định tạo ra lưu vực lớn có sức chứa 164 triệu m3 nước dưới thời cầm quyền của nhà độc tài Francisco Franco. Tuy nhiên, chế độ của Franco cạn tiền và lưu vực không bao giờ hoàn thành. Từ sau đó, nhiều người đã lên tiếng kêu gọi hoàn thành dự án. Ví dụ, năm 2010, thị trưởng Valencia từng thúc giục chính quyền Tây Ban Nha hoàn thành dự án Plan Sur. Trận lũ lụt cuối năm 2024 và hệ quả của nó sẽ nằm trong công cuộc phân tích tác động của dự án chuyển dòng sông ở Valencia.

An Khang (Theo Interesting Engineering)

23 phát minh “tình cờ và bất ngờ” nhưng đã thay đổi cả thế giới

Sản phẩm đất sét chính thức ra đời vào năm 1957.

Những “huyền thoại” sau đây chắc chắn sẽ khiến bạn cảm thấy vừa quen thuộc lại vừa… lạ lẫm vì không ngờ chúng lại được tạo ra trong những hoàn cảnh có một không hai như vậy.

Một số nhà khoa học phải cống hiến cả cuộc đời họ để phát minh ra một công cụ, phương pháp đột phá, mang tính cách mạng cho những vấn đề mắc phải trên thế giới trong hàng thế kỷ. Thế nhưng, cũng không hiếm những trường hợp đơn thuần bằng một cách nào đó đã “vô tình” chạm tay vào vinh quang, cho ra đời những phát minh vĩ đại mà đến nay vẫn còn được áp dụng rộng rãi.

Dù bằng phương pháp nào đi chăng nữa, chúng ta cũng nên cảm thấy biết ơn và may mắn vì tựu chung lại, chúng đều có chung mục đích là xây dựng, kiến thiết nên một thế giới tốt đẹp hơn bao giờ hết.

Dưới đây là danh sách những phát minh “tình cờ” trong quá khứ, nhưng kết quả thì bất ngờ không kém:

Sản phẩm đất sét chính thức ra đời vào năm 1957.
Sản phẩm đất sét chính thức ra đời vào năm 1957.

Nhà phát minh: Joseph McVicker, Chủ tịch công ty Kutol Products – một hãng sản xuất xà-bông tại Cincinnati, Ohio.

Mục đích ban đầu: Những năm đầu thập niên 1950, công ty Kutol đã chế tạo thành công một loại bột đất sét đặc biệt có công dụng loại bỏ các vết đen do bồ hóng gây ra trong những căn nhà sử dụng than, củi để nấu nướng và sưởi ấm. Nhưng theo như số liệu từ Christian Science Monitor, người dân đã sớm có xu hướng chuyển đổi từ loại hình than củi sang sử dụng gas, dẫn đến nguy cơ thua lỗ nghiêm trọng cho công ty.

Diễn biến và kết quả: McVicker khi đó nhớ lại bài học ngày xưa được chị ông dạy cho về việc sử dụng những chất bột nhão để mô phỏng độ dẻo của đất sét. Và cuối cùng vào năm 1957, với quyết định đúng đắn của mình – biến thiết kế trên trở thành một loại đồ chơi cho trẻ em với nhiều màu sắc hấp dẫn – đã giúp mang lại cho công ty hàng triệu USD.

Thật không thể tin được sản phẩm này được tìm ra bởi một cậu bé 11 tuổi.
Thật không thể tin được sản phẩm này được tìm ra bởi một cậu bé 11 tuổi.

Nhà phát minh: Frank Epperson, khi mới… 11 tuổi.

Mục đích ban đầu: Năm 1905, trong khi đang vui chơi cùng với gia đình ở sân sau nhà tại San Francisco, Epperson vô tình dùng một chiếc que trộn bột soda khô và nước lại với nhau trong một chiêc cốc để đùa nghịch, sau đó bỏ quên đống hỗn độn ấy bên ngoài và trở vào bên trong nhà.

Diễn biến và kết quả: Sáng hôm sau (theo nguồn tin từ Gizmodo), Epperson phát hiện ra một “que kẹo băng” ở đó. Cậu bé đã đặt tên cho sản phẩm này theo tên của chình mình: Eppsicle, rồi dần dần khoe và làm nó cho các bạn cùng trang lứa, cho đến cả những đứa con của mình. Những đứa trẻ khi ấy gọi tên chiếc que của cậu là Popsicle, vì được làm từ soda nên khi nếm sẽ có hiện tượng nổ li ti, cho nên vào năm 1923, anh đã đăng ký bằng sáng chế cho thiết kế này, chính thức đánh dấu sự ra đời của kem que – sản phẩm bán chạy nhất mọi thời đại mỗi khi mùa hè đến.

Đồ chơi lò xo uốn này được phát minh bởi một kỹ sư hải quân.
Đồ chơi lò xo uốn này được phát minh bởi một kỹ sư hải quân.

Nhà phát minh: Richard Jones, Kỹ sư Hải quân.

Mục đích ban đầu: Năm 1943, John đang tham gia vào quá trình chế tạo một dụng cụ đồng hồ đo cho mức năng lượng trên những chiến hạm.

Diễn biến và kết quả: Khi ấy, John tập trung vào nghiên cứu lò xo ép. Bỗng nhiên một lần đang mải thiết kế thì một chiếc lò xo rơi xuống sàn, và tiếp tục nảy qua nảy lại cho đến khi mãi sau mới chịu nằm yên trê mặt đất. Sau một vài lần sửa đổi, đồ chơi Slinky đã chính thức ra đời.

Sản phẩm của John Pemberton ra đời rất được ưa chuộng và sau đó mới đổi tên thành Cola cola.
Sản phẩm của John Pemberton ra đời rất được ưa chuộng và sau đó mới đổi tên thành Cola cola.

Nhà phát minh: John Pemberton, Dược sĩ.

Mục đích ban đầu: Sống tại Atlanta những năm 1880, Pemberton kinh doanh một loại xi-rô làm từ rượu và chiết xuất từ cây coca, với tên gọi “Rượu Coca Pháp nhãn hiệu Pemberton”, được quảng cáo là có tác dụng chữa đau đầu và chứng lo lắng, bồn chồn.

Diễn biến và kết quả: Năm 1885, Atlanta nghiêm cấm mọi hình thức buôn bán đồ uống có cồn, vì vậy Pemberton đành loại bỏ nguyên liệu trên khỏi sản phẩm của mình, chỉ còn lại dung dịch coca là yếu tố chính dùng để hòa với nước muối khoáng, tạo nên một loại soda. Thật bất ngờ, kết quả sau đó lại trở nên được ưa chuộng vô cùng vào thời điểm ra mắt, sau này lấy tên Coca-Cola.

Chiếc bánh quy đặc biệt ra đời trong khi mục đích ban đầu chỉ là làm những chiếc bánh quy thông thường.
Chiếc bánh quy đặc biệt ra đời trong khi mục đích ban đầu chỉ là làm những chiếc bánh quy thông thường.

Nhà phát minh: Ruth Wakefield, Chủ công ty Toll House.

Mục đích ban đầu: Wakefield đơn giản chỉ muốn… làm vài chiếc bánh quy thông thường.

Diễn biến và kết quả: Năm 1930, trong lúc trộn một mẻ bánh, Wakefield chợt nhận ra mình hết nguyên liệu socola. Để ứng biến, cô đã bẻ vụn số socola còn lại thành những mảnh bé hơn và tiếp tục trộn vào bột làm bánh. Cô định nướng chảy số vụn socola ấy, hòa cùng nhân bánh nhưng không, những mảnh vụn đó vẫn “cứng đầu”, không hề bị ảnh hưởng, để rồi cuối cùng cho ra một loại bánh quy đặc biệt mới.

Món khoai tây cắt lát chiên được tìm ra bởi đầu bếp tại Carey Moon Lake House.
Món khoai tây cắt lát chiên được tìm ra bởi đầu bếp tại Carey Moon Lake House.

Nhà phát minh: George Crum, Đầu bếp tại Carey Moon Lake House, nằm ở Saratoga Springs, New York.

Mục đích ban đầu: Crum khi ấy đang cố gắng phục vụ món khoai tây Pháp do một khách hàng đặt vào mùa hè 1853.

Diễn biến và kết quả: Khách hàng đó liên tục gửi trả lại món ăn đã phục vụ, yêu cầu phải thái lát mỏng hơn và giòn hơn nữa. Crum đã mất bình tĩnh, cắt lát khoai mỏng đến nỗi không thể mỏng hơn rồi chiên chúng sao cho “khô cứng” nhất có thể. Nhưng không ngờ là rất nhiều người thích nó và đặt mua rất nhiều.

Máy điều hòa nhịp tim được phát minh thành công vào năm 1951.
Máy điều hòa nhịp tim được phát minh thành công vào năm 1951.

Nhà phát minh: John Hopps, Kỹ sư điện tử.

Mục đích ban đầu: Hopps khi ấy đang tiến hành một vài nghiên cứu về hiện tượng hạ thân nhiệt ở người và cố gắng áp dụng Công Nghệ tần số radio để hồi phục và làm nóng cơ thể trở lại.

Diễn biến và kết quả: Trong khi mải mê thí nghiệm, ông khám phá ra rằng nếu trái tim con người ngừng đập vì thân nhiệt giảm xuống, chúng ta vẫn có thể cứu nguy bằng cách sử dụng những kích thích nhân tạo từ bên ngoài. Từ đó, qua nhiều phân tích chuyên sâu, máy điều hòa nhịp tim đã được phát minh thành công vào năm 1951.

Sản phẩm đồ chơi này ra đời khi mục đích ban đầu là thử nghiệm ứng dụng silicon thay cho cao su.
Sản phẩm đồ chơi này ra đời khi mục đích ban đầu là thử nghiệm ứng dụng silicon thay cho cao su.

Nhà phát minh: James Wright, Kỹ sư điện.

Mục đích ban đầu: Trong thời gian diễn ra Thế chiến II, chính phủ Mỹ yêu cầu nguồn cung cấp cao su cho việc sản xuất lốp máy bay, giày ủng và những thứ liên quan. Wright khi ấy đang thử nghiệm ứng dụng silicon thay cho cao su, vì độ phổ biến rộng rãi của nó thời bấy giờ.

Diễn biến và kết quả: Trong một lần thử đặc tính của dầu silicon vào năm 1943, Wright cho thêm boric acid vào hợp chất ban đầu. Kết quả cho ra là một thứ chất nhầy nhụa, có khả năng nảy cao. Khi đó ông không thể nghĩ ra mục đích sử dụng gì cho thứ này, rồi sau đó chợt lóe lên ý tưởng biến nó thành một loại đồ chơi thú vị và tuyệt vời cho trẻ em.

Thời điểm Spencer nhận ra mình vừa chế tạo thành công cỗ máy đồng nghĩa với một khám phá mang tính chất cách mạng của thời đại.
Thời điểm Spencer nhận ra mình vừa chế tạo thành công cỗ máy đồng nghĩa với một khám phá mang tính chất cách mạng của thời đại.

Nhà phát minh: Percy Spencer, Kỹ sư Tập đoàn Raytheon.

Mục đích ban đầu: Năm 1946, Spencer đang tham gia vào dự án nghiên cứu ứng dụng của radar cùng một ống chân không.

Diễn biến và kết quả: Trong khi thực hiện thí nghiệm với ông tuýp, một thanh kẹo trong túi Spencer đột nhiên bị chảy ra. Ngay lập tức, ông lấy thêm vài lõi ngô còn nguyên vẹn đặt gần thiết bị trên, và chúng cũng bắt đầu “nổ”. Đó là thời điểm Spencer nhận ra mình vừa chế tạo thành công cỗ máy đồng nghĩa với một khám phá mang tính chất cách mạng của thời đại.

Albert Hofmann không ngờ rằng, sản phẩm mà mình vô tình tìm ra lại trở thành mặt hàng thường xuyên của thế giới ngầm.
Albert Hofmann không ngờ rằng, sản phẩm mà mình vô tình tìm ra lại trở thành mặt hàng thường xuyên của thế giới ngầm.

Nhà phát minh: Albert Hofmann, Chuyên gia hóa học.

Mục đích ban đầu: Ông đang trong quá trình nghiên cứu chất dẫn xuất của acid kết tinh từ nấm cựa lúa mạch (LSD) trong phòng thí nghiệm tại Basel, Thụy Sỹ năm 1938.

Diễn biến và kết quả: Hoffman tình cờ nuốt một lượng LSD trong lúc mải xem xét những đặc tính của nó. Sau đó ông đã khởi đầu cho một thời kỳ lan tỏa rộng khắp của loại ma túy này, trở thành một mặt hàng thường xuyên của thế giới ngầm.

Chất tạo ngọt được tìm thấy khi Constantine cố gắng tìm ra nguyên liệu thay thế cho nhựa đường.
Chất tạo ngọt được tìm thấy khi Constantine cố gắng tìm ra nguyên liệu thay thế cho nhựa đường.

Nhà phát minh: Constantine Fahlberg, Nhà nghiên cứu tại Đại học Johns Hopkins.

Mục đích ban đầu: Cố gắng tìm ra nguồn nguyên liệu thay thế cho nhựa đường chiết xuất từ than đá vào năm 1879.

Diễn biến và kết quả: Một ngày bình thường như bao ngày khác, trở về nhà sau giờ làm việc, ông phát hiện ra bánh quy vợ làm hôm nay ngọt hơn thường lệ. Nguyên liệu bí mật của vợ ông hóa ra lại trở thành nguồn gốc cho chất tạo ngọt sau này.

Điểm đặc biệt của chất dính chế tạo bởi Silver là bạn có thể đính một vật có trọng lượng nhỏ trên đó.
Điểm đặc biệt của chất dính chế tạo bởi Silver là bạn có thể đính một vật có trọng lượng nhỏ trên đó.

Nhà phát minh: Spencer Silver and Art Fry, làm việc tại Phòng thí nghiệm 3M.

Mục đích ban đầu: Năm 1968, Silver tạo ra một chất dính tạm trong phòng thí nghiệm, nhưng không biết sử dụng nó vào việc gì.

Diễn biến và kết quả: Điểm đặc biệt của chất dính chế tạo bởi Silver là bạn có thể đính một vật có trọng lượng nhỏ lên đó, một mảnh giấy chẳng hạn, dính lên hoặc bỏ đi khỏi bề mặt mà không làm hư hại gì cả. Hơn nữa, độ dính của sáng chế trên rất lâu, có thể được dùng dán lại nhiều lần. Tuy nhiên, mọi cố gắng tìm kiếm ứng dụng thật sự trong đời sống của sản phẩm này vẫn chưa đâu vào đâu.

Vài năm sau, đồng nghiệp của ông – Fry – vốn đang bực tức vì không thể tìm ra cách gì để dán một số giấy tờ lên cuốn sách hợp ca của mình tại nhà thờ. Và từ đó, ý tưởng lớn gặp nhau, giấy nhớ đã được ra đời (dù phải đến năm 1980 mới trở nên phổ biến).

Dung dịch chống bám bẩn được phát minh bởi Pasty Sherman.
Dung dịch chống bám bẩn được phát minh bởi Pasty Sherman.

Nhà phát minh: Patsy Sherman, Chuyên gia hóa học tại 3M.

Mục đích ban đầu: Năm 1953, Sherman đã được nhận vào làm việc cho một dự án phát triển ứng dụng của cao su có khả năng không bị ăn mòn và phân hủy khi tiếp xúc với nhiên liệu của áy bay phản lực.

Diễn biến và kết quả: Một trợ lý của cô vô tình đánh đổ dung dịch thí nghiệm của Sherman lên giày của mình. Sau đó, cô nhận rằng trong khi hầu hết giày của cô trợ lý bị bẩn xung quanh thì chỗ bị đổ vào lại “miễn nhiễm”. Sau đó, Sherman đã tái kế hoạch dự án và tập trung nghiên cứu hợp chất kháng khuẩn trên, được biết tới với cái tên Scotchgard.

Mục đích ban đầu là làm mềm ngũ cốc để chế biến món yến mạch.
Mục đích ban đầu là làm mềm ngũ cốc để chế biến món yến mạch.

Nhà phát minh: John and Will Kellogg, Hai anh em cùng có đam mê khởi nghiệp.

Mục đích ban đầu: Họ đơn thuần chỉ đang tìm cách làm mềm hạt ngũ cốc để chế biến món yến mạch trộn.

Diễn biến và kết quả: Năm 1898, hai anh em tình cờ bỏ quên một nồi ngũ cốc còn đang luộc trong lò trong vòng tận vài ngày. Hỗn hợp đó đã dần bị thiu và mốc, nhưng thành phần còn lại được tạo ra từ đó lại cứng và dày hơn hẳn. Tò mò, họ đã thử thí nghiệm lại, và cuối cùng cũng loại bỏ được hỗn hợp ôi thiu đáng ghét kia, giữ lại sản phẩm cuối cùng như ngày nay.

Penicillin được dùng để điều trị rất nhiều loại bệnh lây lan cũng như viêm nhiễm.
Penicillin được dùng để điều trị rất nhiều loại bệnh lây lan cũng như viêm nhiễm.

Nhà phát minh: Alexander Fleming, Nhà khoa học.

Mục đích ban đầu: Thật nực cười là Fleming đang tìm kiếm một phương thuốc “chữa bách bệnh” trên đời. Tuy nhiên, cho đến khi ông nhận ra nghiên cứu trên là vô ích, thì một bước ngoặt cuộc đời mới xảy đến với ông.

Diễn biến và kết quả: Năm1928, Fleming nhận thấy một đĩa cấy vi khuẩn trong phòng thí nghiệm mà ông đã bỏ đi không dùng đến bỗng xuất hiện một loại nấm có khả năng phân rã toàn bộ vi khuẩn xung quanh nó. Khi được cấy ghép và nuôi dưỡng trong môi trường riêng, ông khám phá ra một nhân tố kháng sinh bên trong – penicillin – có thể được dùng để điều trị rất nhiều loại bệnh lây lan cũng như viêm nhiễm. Thành quả thu được là tỷ lệ tử vong do các loại bệnh trên giảm đáng kể, chỉ còn bằng 1/20 so với thời điểm năm 1900.

Tia X có khả năng xuyên qua mọi vật thể, kể cả con người.
Tia X có khả năng xuyên qua mọi vật thể, kể cả con người.

Nhà phát minh: Wilhelm Röntgen, Nhà Vật lý học.

Mục đích ban đầu: Röntgen khi ấy đang vật lộn với những thí nghiệm về ống catôt, cũng là lúc ông phát hiện ra tia phóng xạ có khả năng xuyên qua tấm bìa cho bên ngoài của ống, tác động lên một hợp chất phía sau làm nó phát sáng lên.

Diễn biến và kết quả: Những nghiên cứu tiếp theo càng chỉ ra rằng ông đã tạo ra một loại bức xa mới, đặt tên là “tia X”, có khả năng xuyên qua hầu hết mọi vật thể, kể cả da thịt con người.

Khóa dán
Đây là sản phẩm cực kỳ thông dụng được cả thế giới ưa chuộng vì sự tiện lợi của nó.

Chiếc khóa dán này được cấp bằng sáng chế vào năm 1955. Đây là sản phẩm cực kỳ thông dụng được cả thế giới ưa chuộng vì sự tiện lợi của nó.

Vào năm 1995, khi dẫn chú chó cưng của mình đi dạo trong cánh rừng, kỹ sư điện người Thụy Sĩ, ông George De Mestral phát hiện những cạnh sắc của quả cây ngưu bàng bám đầy lên quần áo của ông và của con chó.

Khi quan sát các cạnh sắc này dưới kinh hiển vi, ông thấy có hàng ngàn cái móc nhỏ xíu dính lên các vòng nhỏ trong quần áo. Trong đầu ông đột nhiên nghĩ tới một loại khóa 2 mặt mà sau này ông viết về phát minh của mình: “Một mặt có các móc cứng như cạnh sắc, mặt kia lại có các vòng mềm mại như các sợi vải trong quần của tôi”.

Ông đã thử nghiệm với rất nhiều các loại vật liệu và phát hiện ra nylon là thứ hoàn hảo nhất. Thế là khóa dán 2 mặt, sự kết hợp giữa nhung và móc đã ra đời.

Phốt pho
Trong công cuộc biến những thứ không phải vàng thành vàng, một nhà giả kim đã tìm ra phốt pho.

Một nhà giả kim thuật người Đức, Hennig Brand đã tình cờ ra phát hiện ra “phốt pho” vào năm 1669 trong khi đang thực hiện thí nghiệm cô cạn nước tiểu để biến những thứ kim loại không quý thành vàng. Mặc dù Brand không thể hoàn thành mục tiêu ban đầu của mình là chuyển nước tiểu thành vàng song cuối cùng ông cũng đã khiến giới khoa học phải bất ngờ vì đã khám phá ra một chất cặn màu lục có thể phát sáng rực rỡ trong bóng tối, thứ mà chúng ta vẫn thường gọi là phốt pho – nguyên tố thứ 15 trong bảng tuần hoàn hóa học.

Các nhà giả kim thuật đời trước đã thử nghiệm rất nhiều cách điều chế khác nhau với hy vọng có thể biến những thứ không phải vàng thành vàng. Năm 1669, một nhà giả kim của Đức tên là Hennig Brand đã tìm ra phốt pho trong một cuộc tìm kiếm như vậy. Trong thí nghiệm của mình, ông đã dùng khoảng 1.100 lít nước tiểu, dự trữ chúng trong nhiều ngày cho đến khi phát ra mùi khó chịu. Sau đó, ông cho đun sôi chỗ nước tiểu ở nhiệt độ cao, biến nó thành một hỗn hợp với hy vọng sẽ tạo ra chất có thể biến các kim loại thường thành vàng.Tuy nhiên, thay vì tìm ra được phương thức tinh chế vàng,nhà giả kim thuật Brandlại tìm thấy một chất cặn phát sáng kỳ lạ nằm ở dưới đáy bình cầu trong quá trình cô cặn nước tiểu.

Chất độc Tabun
Chất độc này độc đến nỗi, chỉ cần rơi một giọt ra ngoài cũng khiến người ta chóng mặt, co đồng tử và khó thở.

Năm 1936, Gerhard Schrader và nhóm của ông đã khám phá ra một loại “chất độc thần kinh” mới ở Đức trong khi được giao nhiệm vụ phát triển và nghiên cứu thuốc trừ sâu. Sau 2 năm nghiên cứu chuyên sâu, một hợp chất hữu cơ có độc tính cực mạnh ra đời và được đặt tên là “Tabun”. Tabun độc đến nỗi trong một lần bất cẩn làm rơi một giọt xuống ghế phòng thí nghiệm, Schrader và các đồng nghiệp của ông ngay lập tức cảm thấy chóng mặt, co đồng tử và khó thở.

Nhiều người cho rằng, bản chất chết người của loại chất độc thần kinh này sẽ khiến nhiều người phải bỏ mạng trong quá trình nghiên cứu. Nhưng trên thực tế, chính nhà hóa học người Đức tên là Gerhard Schrader và nhóm của ông mới là nạn nhân khi phải đối diện với nhiều nguy hiểm đến tính mạng như khó thở, mất khả năng nghe nhìn tạm thời khi nỗ lực làm việc với hy vọng chấm dứt nạn đói trên thế giới. Làm việc cho IG Farben, trong một phòng thí nghiệm ở Leverkusen với nhiệm vụ tạo raloại thuốc trừ sâu mới,Schrader đã tình cờ phát hiện ra một hợp chất không màu vô cùng độc được cho là có tác dụng cực kỳ hiệu quả trong việc tiêu diệt côn trùng.

Tuy nhiên, sau một thời gian phát hiện, nhóm nghiên cứu của Schrader đã nhận thấy độc tính quá lớn của Tabun bởi chỉ cần một giọt nhỏ của chất này rò rỉ ra ngoài cũng đã gây ảnh hưởng xấu đến con người. Trong Thế chiến II, Đức quốc xã đã triệu tập Schrader về tập trung nghiên cứu với mục đích phát triển và sản xuất Tabun như một loại vũ khí hóa học.

Nhà khoa học Charles Goodyear người Mỹ đã dành một thập kỷ trong cuộc đời của mình để tìm cách làm cho cao su sử dụng một cách dễ dàng hơn và có khả năng chống nóng, lạnh. Tuy nhiên, những nghiên cứu của ông đều thất bại.

Cho đến một ngày, ông tình cờ đổ hỗn hợp lưu huỳnh, cao su vào một lò nấu nóng. Dưới nhiệt độ cao, cao su nóng chảy nhưng không bị hủy hoại, tạo thành hợp chất không thấm nước, chống ăn mòn. Từ phát hiện này của Charles Goodyear, rất nhiều các sản phẩm cao su lưu hóa đã ra đời và được sử dụng ở khắp mọi nơi.

Quinin là một hợp chất chống sốt rét có nguồn gốc từ vỏ cây. Bây giờ chúng ta thường tìm thấy nó trong nước khoáng có pha hương vị quinin, cũng như trong các loại thuốc điều trị sốt rét.

Các nhà truyền giáo Dòng Tên (Jesuits) tại Nam Mỹ sử dụng quinine để điều trị bệnh sốt rét ngay từ những năm 1600. Nhưng truyền thuyết kể rằng, họ học hỏi kinh nghiệm người Andean bản địa.

Câu chuyện liên quan đến một người đàn ông Andean bị lạc trong rừng và mắc bệnh sốt rét. Do cảm thấy khát, anh ta uống nước trong một vũng nước dưới gốc cây quina-quina.

Vị đắng của nước khiến anh lo sợ rằng mình đã uống một thứ gì đó sẽ làm cho bệnh nặng hơn, nhưng điều ngược lại đã xảy ra. Sau khi tình trạng sốt giảm xuống, anh ta có thể tìm đường về nhà và chia sẻ về loài cây chữa bệnh cho những người khác.

Xốp hơi bong bóng

Năm 1957, hai kỹ sư người Thụy Sỹ là Alfred W. Fielding và Marc Chavannes đã cố gắng tạo ra một loại giấy dán tường, với thiết kế nổi bật hơn những loại giấy dán có sẵn.

Bằng cách dán 2 lớp màng với nhau, họ đã thành công khi tạo ra loại giấy dán tường mới có bề mặt ráp và trông khá đặc biệt, nhưng rốt cuộc chẳng ai chịu mua chúng.

Mãi tới năm 1959, một nhân viên marketing đã nảy ra ý tưởng sử dụng giấy dán tường mà Alfred W. Fielding và Marc Chavannes tạo ra để làm lớp đệm bảo vệ máy tính, qua đó giúp chúng không bị va đập, đổ vỡ khi di chuyển đến tay khách hàng.

Ngày nay, loại giấy dán này được biết đến với tên gọi xốp hơi bong bóng, được sử dụng rất rộng rãi trong nhiều ngành nghề như công nghiệp thực phẩm, xây dựng, y tế, thời trang…

Viagra

Vào những năm 1990, các nhà nghiên cứu tại công ty dược phẩm Pfizer đang nghiên cứu một loại thuốc mới để điều trị chứng huyết áp cao và đau thắt ngực.

Thuốc này tên là Sildenafil, và được họ thử nghiệm trên các tình nguyện viên nam. Thật không may, sản phẩm có rất ít tác dụng đối với chứng đau thắt ngực.

Thay vào đó, các bệnh nhân đã báo cáo một tác dụng phụ gây chú ý: dương vật của họ cương cứng từ ít nhất 30 đến 60 phút sau khi dùng thuốc.

Pfizer không mất nhiều thời gian để nhận ra tiềm năng to lớn của loại thuốc này, và đã nhanh chóng cấp bằng sáng chế vào năm 1996. Đến nay, sản phẩm này đã được sử dụng trong điều trị chứng rối loạn cương dương cho hơn 30 triệu nam giới chỉ tính riêng tại Mỹ.

Mirage 2000 của Ukraine liệu có “cơ hội” trước Su-35 và S-400 của Nga?

Mirage 2000 của Ukraine liệu có cơ hội trước Su-35 và S-400 của Nga? - Ảnh 1.

Liệu rằng Mirage 2000 có thể mang lại những kết quả có lợi cho Quân đội Ukraine và làm “rạng danh” nền Công Nghệ quốc phòng của Pháp.

Quyết định cung cấp máy bay chiến đấu Mirage 2000 cho Ukraine của Pháp, được cho là bước phát triển mới của châu Âu trong viện trợ quân sự cho Kiev. Được công bố vào nửa cuối năm 2024, động thái của Pháp nhấn mạnh cam kết ngày càng tăng của phương Tây, nhằm tăng cường năng lực phòng thủ cho Ukraine trong bối cảnh xung đột đang diễn ra với Nga.

Số lượng chính xác máy bay Mirage 2000 và mốc thời gian cụ thể để giao hàng vẫn chưa được công bố, một phần vì lý do an ninh. Tuy nhiên, các nhà phân tích quân sự tin rằng lô hàng đầu tiên dự kiến khoảng 10 máy bay.

Mirage 2000 của Ukraine liệu có cơ hội trước Su-35 và S-400 của Nga? - Ảnh 1.

 

Mirage 2000 với Su-35 và S-400

Mirage 2000 là máy bay chiến đấu đa năng thế hệ thứ tư do Dassault Aviation thiết kế, bay lần đầu tiên vào năm 1978 và kể từ đó đã trở thành máy bay chiến đấu chủ lực của Không quân Pháp và các nước đồng minh. Được trang bị một loạt các hệ thống vũ khí và thiết bị điện tử tiên tiến, nhờ vậy mà Mirage 2000 linh hoạt trong cả nhiệm vụ không chiến và tấn công mặt đất.

Mirage 2000 đã chứng minh được khả năng của mình qua nhiều cuộc xung đột, từ Chiến tranh vùng Vịnh đến các hoạt động ở Libya và Syria, câu hỏi quan trọng là nó sẽ ứng phó như thế nào trước các mối đe dọa hiện đại của Nga, đặc biệt là Su-35 và hệ thống tên lửa đất đối không S-400.

Su-35 được đánh giá là một trong những máy bay chiến đấu tiên tiến nhất trên thế giới. Su-35 tự hào có những cải tiến đáng kể về hệ thống điện tử hàng không, tầm bay, khả năng cơ động và hệ thống vũ khí. Hệ thống radar và tác chiến điện tử tiên tiến giúp Su-35 có lợi thế trong việc phát hiện mục tiêu và giao tranh tầm xa.

Mirage 2000 của Ukraine liệu có cơ hội trước Su-35 và S-400 của Nga? - Ảnh 2.

 

Trong không chiến tầm gần, Su-35 rất nhanh nhẹn, nhờ động cơ đẩy vectoring. Điều này làm dấy lên nhiều mối lo ngại đối với Mirage 2000 – một thiết kế đã hơn bốn thập kỷ hoạt động, khi phải đối đầu trực tiếp với một chiến đấu cơ hiện đại.

Hơn nữa, hệ thống S-400 cũng sẽ mang đến một thách thức không hề nhỏ. S-400 là một trong những hệ thống phòng không tinh vi nhất thế giới, được thiết kế để bắn hạ máy bay, UAV và tên lửa đạn đạo ở phạm vi lên tới 400 km.

Hệ thống này sử dụng nhiều loại tên lửa, mỗi loại được thiết kế để đánh chặn các loại mục tiêu cụ thể ở nhiều độ cao khác nhau. Mirage 2000, không có khả năng tàng hình, vì vậy rất dễ bị tổn thương khi đối mặt với S-400.

Justin Bronk, một nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Royal United Services (RUSI), cảnh báo rằng “mặc dù Mirage 2000 là một máy bay chiến đấu có năng lực cao, nhưng nó bị Su-35 vượt trội ở hầu hết mọi khía cạnh hiệu suất quan trọng, đặc biệt là về phạm vi radar và khả năng tác chiến điện tử”. Ông nói thêm, “Cơ hội tốt nhất của Ukraine sẽ là tận dụng mạng lưới tình báo, chỉ huy và kiểm soát do phương Tây cung cấp để bù đắp cho những bất lợi của Mirage 2000”.

Về tốc độ và sự nhanh nhẹn, tốc độ tối đa của Su-35 là Mach 2,25 nhỉnh hơn một chút so với Mach 2,2 của Mirage 2000. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn trong không chiến ngày nay là khả năng tác chiến ngoài tầm nhìn (BVR), nơi mà các hệ thống radar và tên lửa phát huy tác dụng.

Su-35 được trang bị radar Irbis-E, có thể theo dõi đồng thời 30 mục tiêu và tấn công 8 mục tiêu trong phạm vi lên đến 400 km, vượt trội so với radar RDY của Mirage 2000. Điều này khiến Mirage 2000 khó có thể bí mật tiếp cận Su-35 và tấn công trước.

Mirage 2000 của Ukraine liệu có cơ hội trước Su-35 và S-400 của Nga? - Ảnh 3.

 

Hơn nữa, tên lửa không đối không R-77 và R-27 của Su-35 có tầm bắn hiệu quả xa hơn so với tên lửa MICA của Mirage 2000. Tên lửa MICA có khả năng cơ động cao và có thể khóa mục tiêu sau khi phóng, tầm bắn khoảng 80 km, nhưng R-77 có thể bắn trúng mục tiêu cách xa tới 110 km.

Mối đe dọa từ hệ thống S-400 được xem là đáng sợ hơn. Mirage 2000 sẽ phải hoạt động bên ngoài phạm vi tấn công của hệ thống S400 để tránh bị bắn hạ. Điều này sẽ hạn chế khả năng hoạt động của máy bay ở những khu vực tranh chấp, đặc biệt là ở miền đông Ukraine, nơi mạng lưới phòng không của Nga dày đặc nhất.

Những khó khăn khác

Bên cạnh đó, công tác hậu cần để duy trì một đội máy bay nước ngoài rất phức tạp, đặc biệt là trong điều kiện thời chiến. Ukraine đã vận hành hỗn hợp các máy bay thời Liên Xô như MiG-29, Su-27 và việc bổ sung Mirage 2000 sẽ đòi hỏi cơ sở hạ tầng, công tác đào tạo và chuỗi cung ứng mới. Phụ tùng thay thế và nhân sự có trình độ là rất quan trọng để duy trì hoạt động của máy bay và sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng có thể khiến đội bay phải ngừng hoạt động.

Hơn nữa, thời gian để phi công và nhân viên mặt đất Ukraine trở nên thành thạo với Mirage 2000 có thể mất vài tháng. Theo John Venable, một chuyên gia chính sách quốc phòng tại Heritage Foundation, “Kể cả khi Ukraine có thể đưa những máy bay này vào hoạt động ngay, thì các vấn đề bảo dưỡng và vận hành có thể cản trở hiệu quả của chúng trong dài hạn, đặc biệt là nếu xung đột kéo dài”.

Mirage 2000 của Ukraine liệu có cơ hội trước Su-35 và S-400 của Nga? - Ảnh 4.

 

 

Về khả năng không đối đất, Mirage 2000 được trang bị để mang theo nhiều loại đạn dược, bao gồm bom dẫn đường bằng laser, tên lửa không đối đất và tên lửa chống bức xạ. Những vũ khí này có thể hữu ích khi nhắm vào các vị trí trên mặt đất và các cơ sở radar của Nga.

Tuy nhiên, hoạt động trong các khu vực được S-400 bảo vệ sẽ đòi hỏi phải gây nhiễu và đối phó với các hệ thống phòng không của Nga một cách tinh vi. Tuy nhiên, các radar của S-400 được thiết kế để chống lại các nỗ lực gây nhiễu, làm phức tạp thêm nhiệm vụ cho các phi công Ukraine.

Bất chấp những thách thức này, một số người cho rằng Mirage 2000 vẫn có thể là một tài sản có giá trị đối với lực lượng không quân Ukraine. Điểm mạnh của máy bay Pháp, như tỷ lệ lực đẩy trên trọng lượng cao và thiết kế cánh tam giác, khiến nó cực kỳ linh hoạt trong không chiến. Khả năng leo cao nhanh, việc sử dụng các chiến thuật đánh và chạy có thể là một lợi thế có giá trị trong một số tình huống nhất định, đặc biệt nếu được sử dụng kết hợp với tình báo NATO và hỗ trợ nhắm mục tiêu. Ngoài ra, chi phí hoạt động của máy bay cũng tương đối thấp so với các máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm như F-35.

Mirage 2000 có thể sẽ đóng vai trò bổ sung, lấp đầy những khoảng trống mà các tài sản không quân hiện có của Ukraine không đủ, nhưng không tham gia dẫn đầu các cuộc tấn công chống lại các hệ thống phòng thủ tinh vi nhất của Nga.

Tóm lại, quyết định cung cấp máy bay chiến đấu Mirage 2000 cho Ukraine của Pháp là một động thái có ý nghĩa chính trị, nhưng những thách thức về mặt hoạt động là rất lớn. Mirage 2000 phải đối mặt với những bất lợi đáng kể khi so sánh với Su-35 của Nga trên không và S-400 trên mặt đất.

Quang Hưng

NVIDIA muốn đưa robot vào bệnh viện: Kỷ nguyên AI vật lý sắp tới?

NVIDIA muốn đưa robot vào bệnh viện: Kỷ nguyên AI vật lý sắp tới?- Ảnh 1.

Nvidia đang mở rộng mạnh mẽ trong lĩnh vực y tế, với tham vọng đưa AI vào mọi ngóc ngách của bệnh viện. Công ty đã đầu tư vào một loạt các startup và thiết lập các quan hệ đối tác trong lĩnh vực sức khỏe số và Công Nghệ sinh học, bao gồm chăm sóc ảo và nghiên cứu dược phẩm. Theo Phó Chủ tịch Y tế của Nvidia, Kimberly Powell, sau thành tựu từ các mô hình ngôn ngữ lớn trong vài năm qua, làn sóng AI tiếp theo sẽ làm thay đổi các thiết bị y tế thành robot.

“Điều này đang đến,” Powell chia sẻ với Business Insider. “Cả bệnh viện sẽ vận hành nhờ AI. Những ‘con mắt’ robot sẽ hỗ trợ bạn, các thiết bị y tế thông minh sẽ tự động hóa công việc, và chúng tôi rất phấn khởi với tiềm năng này, nên đang đầu tư lớn.”

Powell mô tả “AI vật lý” là những mô hình có khả năng nhận biết, hiểu và tương tác với thế giới thực. Trong lĩnh vực y tế, Nvidia đã phát triển các Công Nghệ hợp tác với các startup để tiến sâu hơn vào các hệ thống y tế và thúc đẩy việc ứng dụng AI rộng rãi. Động thái này nhằm duy trì vị thế tiên phong của Nvidia trong Công Nghệ robot.

NVIDIA muốn đưa robot vào bệnh viện: Kỷ nguyên AI vật lý sắp tới?- Ảnh 1.

Powell cho biết sẽ cần “vài năm” để ngành y tế hoàn toàn ứng dụng AI vật lý, nhưng với các thành phần chính đã được áp dụng, sự chuyển đổi này có thể đến sớm hơn dự kiến. Một phần của bước chuyển này là “bản sao kỹ thuật số” của bệnh viện. Để đào tạo và vận hành robot y tế phức tạp, Nvidia tạo ra các bản sao kỹ thuật số – tức mô phỏng số của các môi trường bệnh viện thật. Hợp tác với nhà cung cấp IT Mark III và các hệ thống y tế như Đại học Florida Health, Nvidia phát triển mô phỏng không gian bệnh viện để đào tạo nhân viên y tế trong các phòng mổ ảo.

Robot y tế cần có khả năng nhận biết và tương tác với các tín hiệu từ thế giới thực, như chuyển động và ngôn ngữ, đồng thời được lập trình với các kỹ năng vật lý cần thiết, như điều chỉnh áp lực để sử dụng một con dao mổ. Để thực hiện điều này, hệ thống AI của Nvidia cần ba máy tính hoạt động song song: một cho việc đào tạo AI, một cho mô phỏng không gian số, và một để vận hành robot.

Nvidia không chỉ tập trung vào các robot phục vụ trong phòng mổ mà còn hướng tới nhiều ứng dụng khác trong bệnh viện, chẳng hạn theo dõi bệnh nhân để ngăn ngừa té ngã hoặc vận chuyển các vật dụng như ga trải giường sạch giữa các phòng bệnh. Powell đề cập đến Mayo Clinic, nơi đã sử dụng robot để tự động chuyển ga trải giường trong cơ sở tại Florida.

Một ví dụ khác là nền tảng Holoscan của Nvidia, được ứng dụng trong robot trợ lý phẫu thuật của công ty Moon Surgical. Nền tảng này giúp robot có thể hỗ trợ các bác sĩ cầm, giữ và điều chỉnh dụng cụ phẫu thuật như camera trong các ca nội soi phức tạp. Ngoài ra, Nvidia còn hợp tác với Microsoft nhằm hỗ trợ các startup AI trong lĩnh vực y tế và khoa học sự sống. Hai công ty kết hợp bộ tăng tốc Nvidia Inception và nền tảng Microsoft for Startups để cung cấp tín dụng đám mây, công cụ AI và sự hỗ trợ chuyên gia cho các startup trong lĩnh vực này.

Tuy Nvidia đang tiến vào lĩnh vực y tế, Powell khẳng định công ty không có ý định trở thành một công ty y tế và cũng không có kế hoạch mua lại các doanh nghiệp trong ngành này. Tuy vậy, Nvidia đầu tư mạnh mẽ vào các startup có tiềm năng cải thiện dịch vụ y tế bằng AI. Một trong những khoản đầu tư lớn của Nvidia là vào công ty viết bảng y tế Abridge. Nvidia đã đầu tư vào Abridge qua quỹ NVentures vào tháng 3 năm nay, và hiện Abridge đang thu hút sự chú ý với mức định giá 2,5 tỷ USD. Nvidia và Abridge đang cùng nhau phát triển các nghiên cứu về ngôn ngữ.

Startup khác là Hippocratic AI, được Nvidia đầu tư vào tháng 9, sau khi thiết lập quan hệ đối tác với công ty để phát triển các đại lý AI y tế có thể trò chuyện video với bệnh nhân. Với các bước đi chiến lược này, Nvidia đang ngày càng củng cố vị trí của mình trong lĩnh vực AI y tế và tạo nền tảng cho các Công Nghệ tiên tiến để cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe.

Iceland lên kế hoạch thu điện mặt trời từ vũ trụ

Mô phỏng nhà máy sản xuất điện mặt trời trên quỹ đạo Trái Đất. Ảnh: Alamy
Mô phỏng nhà máy sản xuất điện mặt trời trên quỹ đạo Trái Đất. Ảnh: Alamy

Mô phỏng nhà máy sản xuất điện mặt trời trên quỹ đạo Trái Đất. Ảnh: Alamy

Trong động thái góp phần cách mạng hóa thu thập năng lượng và giảm phụ thuộc vào các nguồn không tái tạo, Iceland có thể trở thành nước đầu tiên khai thác năng lượng mặt trời từ vũ trụ. Chương trình sáng kiến bền vững Transition Labs của Iceland đang cộng tác với công ty năng lượng Reykjavik Energyt trong nước và công ty Space Solar ở Anh để phát triển nhà máy năng lượng mặt trời bên ngoài khí quyển của Trái Đất, Interesting Engineering hôm 4/11 đưa tin.

Nhà máy đầu tiên của Space Solar được thiết kế để đạt công suất ban đầu là 30 MW, cung cấp nguồn điện liên tục đáng tin cậy, không bị ảnh hưởng bởi thời tiết hoặc thời gian trong ngày. Dự án hướng tới đem đến năng lượng giá rẻ cả ngày, đặt ra tiêu chuẩn mới cho năng lượng tái tạo. Mỗi trang trại mặt trời 30 MW sẽ được đưa lên quỹ đạo trong một lần phóng bằng siêu tên lửa Starship của SpaceX. Bắt đầu vào năm 2030, hệ thống có thể sản xuất đủ điện để đáp ứng nhu cầu của 1.500 – 3.000 hộ gia đình. Các tấm pin quang điện trong không gian sẽ thu thập ánh sáng mặt trời và truyền dưới dạng sóng vô tuyến tới trạm trên mặt đất để biến đổi lại thành điện nạp vào mạng lưới.

Quá trình thiết kế và xây dựng nhà máy thí điểm sẽ có chi phí 800 triệu USD. Dự kiến hệ thống sẽ cung cấp điện ở chi phí bằng 1/4 điện hạt nhân, với mức 2,2 tỷ USD/gigawatt, giúp cạnh tranh với những nguồn năng lượng tái tạo trên Trái Đất. Nhà máy điện của Space Solar sẽ được tạo ra từ các khối xây dựng lõi module có thể ghép thành hệ thống thu thập năng lượng mặt trời ở nhiều kích cỡ khác nhau. Chúng có thể hoạt động tại độ cao khác nhau và cung cấp điện cho nhiều nước cùng lúc.

Phân tích độc lập của Đại học Hoàng gia London chỉ ra việc tăng thêm 8 GW năng lượng mặt trời trong không gian vào lưới điện hỗn hợp của Anh có thể giúp tiết kiệm hơn 5,2 tỷ USD chi phí hàng năm. Đối với Transition Labs, dự án hợp tác giữa Reykjavik Energy và Space Solar là bước quan trọng để triển khai ở quy mô đầy đủ. “Trọng tâm đặt vào Công Nghệ khí hậu của Reykjavik Energy cùng với kinh nghiệm của họ trong lưu trữ carbon thông qua hợp tác với Climeworks biến công ty này thành đối tác phù hợp cho giai đoạn đầu trong dự án của Space Solar”, Kjartan Örn Ólafsson, giám đốc điều hành Transition Labs, nhận xét.

Space Solar nhắm tới tăng sản xuất để đáp ứng nhu cầu năng lượng toàn cầu. Công nghệ truyền điện của họ, phát triển với 6,4 triệu USD dành cho nghiên cứu kỹ thuật, sẽ cung cấp lựa chọn an toàn, có thể mở rộng quy mô và chi phí hợp lý để đáp ứng nhu cầu điện tối thiểu 24/7.

Đầu năm nay, thí nghiệm của Viện Công nghệ California chứng minh Công Nghệ truyền điện từ quỹ đạo khả thi, nhưng chỉ ở mức gửi vài milliwatt về Trái Đất. Đề xuất ở Iceland sẽ cần cung cấp lượng điện nhiều gấp hàng tỷ lần. Khi cụm nhà máy điện không gian mở rộng, Iceland, Canada, và miền Bắc Nhật Bản là những địa điểm tiềm năng để đặt trạm thu nhận điện. Space Solar sẽ tăng công suất lên mức gigawatt vào năm 2036.

An Khang (Theo Interesting Engineering)

Phát minh mới cho ra đời pin vĩnh cửu

Pin vĩnh cửu

Dựa trên nguyên tắc lấy năng lượng dư thừa sẵn có trong tự nhiên, các nhà khoa học đã chế tạo thành công những viên pin có khả năng duy trì vĩnh viễn.

Nhiều thập kỷ qua, con người đã nỗ lực tìm kiếm các nguồn năng lượng sạch và không bao giờ cạn kiệt để có nguồn cung năng lượng bền vững và góp phần chống biến đổi khí hậu.

Pin vĩnh cửu
Hình minh họa cho thấy năng lượng bổ sung được tạo ra trong quá trình sử dụng nguồn năng lượng chính, tạo nên pin trọng lực. (Ảnh: LuckySoul/Adobe).

Một trong những vấn đề vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất năng lượng chính là làm thế nào để thu giữ được năng lượng dư thừa để giảm thất thoát và tăng hiệu quả sử dụng năng lượng. Mới đây, các nhà khoa học đã tìm ra được một giải pháp, đó chính là pin trọng lực hay ắc quy trọng lực.

Về cơ bản, giải pháp này dựa trên nguyên tắc lấy năng lượng dư thừa được tạo ra từ năng lượng gió, mặt trời và các nguồn năng lượng tái tạo khác, lưu trữ phần năng lượng dư thừa này vào các ắc quy có khối lượng lớn. Các ắc quy này sẽ được cất giữ trên cao so với mặt đất và trong quá trình hạ xuống để sử dụng, chúng sẽ tạo thêm năng lượng bổ sung nhờ trọng lực.

Nhưng làm thế nào để năng lượng bổ sung đó hoạt động như một chiếc ắc quy? Ý tưởng cơ bản thực ra rất đơn giản. Hãy nghĩ đến tác động của trọng lực. Khi một quả bóng lăn từ trên đỉnh xuống chân đồi, năng lượng được tạo ra bởi vì quả bóng chuyển động, và năng lượng đó ban đầu được tạo ra bằng năng lượng dùng để đẩy quả bóng từ chân lên đỉnh đồi. Nguyên tắc đó được áp dụng cho các pin trọng lực chúng ta đang nói đến ở đây.

Khi nâng các khối lượng lớn lên cao theo một đường hầm thẳng đứng, giống như trong một hầm mỏ, chúng ta đã tiêu thụ một lượng năng lượng, nhưng vì các khối đó (ví dụ như cát, đất, đá, hay bất cứ thứ gì) được nâng lên cao nên chúng ta có thể cho chúng rơi xuống để tạo ra năng lượng bổ sung. Như vậy, mặc dù đó không phải là một loại pin tiêu chuẩn nhưng pin trọng lực vẫn có thể dùng được như một giải pháp tích trữ năng lượng, chỉ là không phải theo cách chúng ta thường nghĩ.

Thông thường các nhà khoa học vẫn gọi năng lượng này là thế năng và về bản chất nó không phải là điện, nhưng có thể dễ dàng chuyển đổi nó từ chuyển động của các pin trọng lực trở thành điện năng và truyền tải đến đường dây điện để đưa đến nơi sử dụng. Đây là một ý tưởng độc đáo và mới lạ, nhưng chính những ý tưởng như vậy thường thúc đẩy những đột phá khoa học trong nền văn minh của chúng ta.

Đây cũng không phải lần đầu tiên lực hấp dẫn được sử dụng để sạc lại pin. Một đoàn tàu được thiết kế chạy vĩnh viễn không ngừng cũng sử dụng một loại pin trọng lực tương tự, nó được sạc lại bất cứ khi nào tàu đi từ nơi cao xuống nơi thấp, nhờ đó con tàu sẽ chạy được chừng nào quãng đường đi còn có những nơi để nó có thể sạc lại pin.

Nếu S24 Ultra “không có trên đời”, đây mới là mẫu điện thoại đỉnh nhất của Samsung: Giá đã giảm 7 triệu

- Ảnh 1.

Đây được coi là mẫu điện thoại bị đánh giá thấp nhất của Samsung khi không được nhắc đến nhiều trong các bài đánh giá hay tư vấn.

Trái với iPhone, khi các mẫu cơ bản luôn được lòng người tiêu dùng không thua kém phiên bản Pro, các thiết bị của Samsung lại không mang đến ấn tượng đồng đều trong tâm trí khách hàng.

Thông thường, mẫu Ultra luôn chiếm được nhiều sự chú ý nhiều nhất khi thế hệ Galaxy S mới ra mắt, trong khi phiên bản cơ bản và Plus đôi khi bị lãng quên. Đây là một sự thiệt thòi lớn khi điện thoại cơ bản của Samsung được chăm chút về chất lượng không kém mẫu phiên bản Ultra.

Ví dụ lớn nhất chính là Galaxy S24. Đây được coi là mẫu điện thoại bị đánh giá thấp nhất của Samsung khi không được nhắc đến nhiều trong các bài đánh giá hay tư vấn.

Trong thời đại mọi thiết bị có màn hình càng to hơn như hiện nay, có rất ít công ty sản xuất điện thoại màn hình nhỏ nhưng có cấu hình mạnh mẽ hàng đầu. Samsung là một trong số ít các công ty đó.

- Ảnh 1.

Galaxy S24 xứng đáng là mẫu điện thoại nhỏ gọn tốt nhất thị trường, kết hợp giữa cảm giác cầm nắm tốt, hiệu suất mượt mà, camera chất lượng và không thể thiếu tính năng Galaxy AI kỳ diệu.

Chất lượng bị lãng quên của Galaxy S24

Galaxy S24 vẫn giữ nguyên thiết kế đặc trưng của điện thoại Samsung với ba ống kính camera riêng biệt ở mặt sau, phần khung Armor Aluminum mới cứng cáp với lớp hoàn thiện mờ, không bám dấu vân tay.

Chất lượng màn hình của Galaxy S24 là rất tốt, độ sáng cao 2.600 nits, một cải tiến lớn so với 1.750 nits của mẫu trước, đi kèm với tốc độ làm tươi dao động 1Hz-120Hz, thứ trước đây chỉ có ở mẫu Ultra.

Độ phân giải vẫn là 1080p, nhưng đây không phải vấn đề quá lớn, khi đủ sắc nét đối với đại đa số người dùng, kết hợp phần viền mỏng tạo nên tổng thể trực quan.

Người dùng có cảm biến siêu âm trên màn hình loại mới, nhanh và nhạy hơn. Đây là nâng cấp đáng giá nhưng không được chú ý nhiều trên dòng S24.

Samsung sử dụng cùng một cảm biến camera chính trong năm thứ ba liên tiếp và cũng không có thay đổi nào đối với camera góc siêu rộng và camera zoom 3X.

- Ảnh 2.

Tuy nhiên, ảnh và video từ camera S24 trông khác biệt rõ rệt so với các thế hệ trước. Ảnh không còn hiện tượng làm sắc nét quá mức và màu sắc được làm dịu đi và cân bằng hơn.

Galaxy S24 nhận được số điểm rất cao của PhoneArena về camera, nằm trong số những mẫu điện thoại nhỏ gọn có chất lượng chụp ảnh và quay video tốt nhất trên thị trường.

Điểm yếu nhất của điện thoại này so với các điện thoại flagship khác chỉ là chất lượng zoom.

Điện thoại nhỏ gọn hoàn hảo

Galaxy S24 chạy trên chipset Qualcomm Snapdragon 8 Gen 3 tại Mỹ, trong khi các thị trường khác sẽ có phiên bản chạy trên chipset Samsung Exynos 2400.

Hiệu suất thực sự được cải thiện đáng kể với những con chip mới này, nhưng Samsung có vẻ như đang tập trung nhiều vào yếu tố hiệu suất “Galaxy AI” hơn là sức mạnh thông thường.

Về thông số kỹ thuật thuần túy, Galaxy S24 đi kèm 8GB RAM, ít hơn 12GB ở các phiên bản cao cấp hơn.

Cuối cùng, Samsung hứa hẹn 7 năm nâng cấp hệ điều hành và bản vá bảo mật ấn tượng cho Galaxy S24. Đây là chiếc Galaxy đầu tiên nhận được hỗ trợ phần mềm lâu như vậy (dòng S23 chỉ hỗ trợ 4 năm nâng cấp hệ điều hành).

- Ảnh 3.

Pin của Galaxy S24 có dung lượng lớn hơn một chút là 4.000mAh, tăng từ 3.900mAh của mẫu năm ngoái. Mức pin này có thể coi là ổn với một mẫu máy có kích thước màn hình không quá lớn.

Giá bán không quá cao của Galaxy S24 là một lợi thế đáng kể khác. Phiên bản cơ bản 8GB/128GB hiện này có giá chỉ khoảng 16-17 triệu đồng ở thị trường Việt Nam, giảm khoảng 6-7 triệu so với thời điểm ra mắt. Mức giá này thấp hơn nhiều so với iPhone 16 và thấp hơn 1-2 triệu so với đối thủ cùng phân khúc là iPhone 15.

Trên thực tế, trong bài so sánh gần đây của Phone Arena, Galaxy S24 có phần nhỉnh hơn cả phiên bản iPhone 15 hay 16 Pro của Apple ở một số khía cạnh nhỏ dù đây là mẫu máy thấp nhất trong dòng S24.

Galaxy S24 là một lựa chọn sáng giá, ổn định, không rườm rà, dành cho những ai cần một máy nhỏ gọn, có đủ mọi thông số và tính năng của một thiết bị hàng đầu nhưng giá bán chỉ ở phân khúc tầm trung cao cấp (dưới 20 triệu).

Camera chất lượng, hiệu suất cao, thời lượng pin tốt và có tính năng Galaxy AI. Đây là một trong những lựa chọn xứng đáng nhưng bị lãng quên dành cho người hâm mộ Android.

iOS 18.2 ra mắt tính năng Find My mới: Tìm đồ thất lạc chưa bao giờ dễ dàng đến thế!

iOS 18.2 ra mắt tính năng Find My mới: Tìm đồ thất lạc chưa bao giờ dễ dàng đến thế!- Ảnh 1.

Ứng dụng Find My của Apple hiện tại đã cho phép người dùng chia sẻ vị trí các vật dụng với những người họ tin tưởng để cùng theo dõi. Tính năng này đặc biệt hữu ích cho các gia đình thường xuyên chia sẻ các vật dụng như chìa khóa. Tuy nhiên, với iOS 18.2, người dùng còn có thể tạm thời chia sẻ vị trí vật dụng của mình với bất kỳ ai họ muốn.

Tùy chọn mới này xuất hiện trong một menu riêng khi bạn chọn một vật phẩm trong ứng dụng Find My. Về cơ bản, nó tạo ra một liên kết công khai hiển thị vị trí của vật phẩm đó. Điều này đồng nghĩa với việc bất kỳ ai có liên kết đều có thể xem được vị trí của vật phẩm. Apple đưa ra ví dụ về việc chia sẻ liên kết với hãng hàng không để họ có thể hỗ trợ bạn tìm kiếm hành lý thất lạc.

iOS 18.2 ra mắt tính năng Find My mới: Tìm đồ thất lạc chưa bao giờ dễ dàng đến thế!- Ảnh 1.

Ngoài ra, iOS 18.2 còn bổ sung một tùy chọn mới trong Find My, cho phép người dùng chia sẻ thông tin liên lạc của họ khi ai đó đưa AirTag đến gần iPhone. Tính năng này giúp người khác dễ dàng tìm thấy địa chỉ email hoặc số điện thoại của chủ sở hữu vật dụng bị mất. Liên kết chia sẻ vị trí là liên kết tạm thời và vị trí sẽ ngừng được chia sẻ sau một vài giờ. Người dùng cũng có thể tùy chọn dừng chia sẻ bất cứ lúc nào. Khi bạn chia sẻ vật dụng bị mất với ai đó, Apple cũng sẽ hiển thị địa chỉ email và số điện thoại của bạn. Bạn cũng có thể xem ai đã truy cập vào liên kết bạn đã chia sẻ.

Những tính năng mới này là một phần của bản cập nhật iOS 18.2, hiện đang ở giai đoạn beta dành cho nhà phát triển. Đây là một bản cập nhật lớn, mang đến nhiều tính năng mới liên quan đến Apple Intelligence, bao gồm Genmoji, Image Playground, tích hợp ChatGPT và Visual Intelligence trên các mẫu iPhone 16. Apple cho biết iOS 18.2 sẽ được phát hành chính thức vào tháng 12.

Bản cập nhật iOS 18.2 cũng bao gồm một số cải tiến khác. Đáng chú ý là tính năng khóa lấy nét và phơi sáng cho Camera Control trên iPhone 16, cài đặt Wide và Ultrawide mới cho Mac Virtual Display trên visionOS 2.2 và tùy chọn “Nâng cấp lên ChatGPT Plus” trong ứng dụng Cài đặt.

Cá sấu nuôi nhốt lớn nhất thế giới chết

Cassius là cá sấu nuôi nhốt lớn nhất thế giới với chiều dài 5,48 m. Ảnh: ABC
Cassius là cá sấu nuôi nhốt lớn nhất thế giới với chiều dài 5,48 m. Ảnh: ABC

Cassius là cá sấu nuôi nhốt lớn nhất thế giới với chiều dài 5,48 m. Ảnh: ABC

Cassius, con cá sấu nuôi nhốt lớn nhất thế giới, chết sau khi sức khỏe của nó suy yếu nhanh từ giữa tháng 10, theo thông báo trên Facebook của Marineland Melanesia Crocodile Habitat & Gift Shop. Con cá sấu nước mặn (Crocodylus porosus) dài 5,48 m nhận kỷ lục Guinness dành cho cá sấu nuôi nhốt lớn nhất còn sống trên thế giới năm 2011. Nhưng do chưa có ai đo kích thước của Cassius kể từ sau đó, nó có thể phát triển lớn hơn. Loài vật này có khả năng dài tới 7 m, theo Live Science.

Cassius đã sống ở vườn thú Marineland Melanesia Crocodile Habitat trên đảo Green của Australia từ năm 1987. Nó bị bắt trên sông Finniss gần Darwin năm 1984 do hành vi hung dữ và gây ra nhiều vấn đề. “Là động vật ăn thịt đầu bảng, con cá sấu lớn này gây ra đủ loại vấn đề từ bắt và ăn thịt gia súc tới tấn công chân vịt tàu thuyền”, đại diện của Marineland Melanesia cho biết. “Cũng tại đây, nó có nhiều vết sẹo từ các trận chiến, bao gồm mất chân trước bên trái, một phần mõm và khoảng 15 cm chóp đuôi”.

Cassius được chuyển tới cơ sở hỗ trợ chăm sóc ở Cairns hôm 5/10 và sức khỏe của nó xuống dốc không lâu sau đó. Nó rất già và được cho là sống quá tuổi thọ thông thường của cá sấu hoang dã. Dù các chuyên gia không chắc chắn, họ cho rằng con cá sấu khổng lồ có thể hơn 120 tuổi khi chết. Lúc bị bắt, ước tính Cassius khoảng 30 – 80 tuổi. Tốc độ phát triển của cá sấu chậm đi đáng kể sau khi chúng trưởng thành.

“Không có cách nào để biết rõ tuổi thực của Cassius bởi nó sinh ra trong tự nhiên và độ tuổi chỉ là ước tính”, Toody Scott, một trong những nhân viên chăm sóc Cassius ở Công viên cá sấu Marineland, chia sẻ.

Bất chấp kích thước khổng lồ, Cassius không phải con cá sấu lớn nhất từng được nuôi nuốt trong lịch sử. Kỷ lục đó thuộc về cá sấu nước mặn Lolong, bị bắt ở Philippines vào tháng 9/2011, và dài 6,17 m trước khi chết năm 2013.

An Khang (Theo Live Science)

Mexico phát minh ra pin vĩnh cửu, bật sáng đèn pin trong 100 năm

Nhà khoa học Mexico Arturo Solis Herrera và loại pin vĩnh cử mà ông chế tạo.

Theo phóng viên tại Mexico, mới đây, nhà khoa học Mexico Arturo Solis Herrera đã chế tạo ra một loại pin có thể dùng để bật sáng đèn pin trong vòng 100 năm bằng cách sử dụng nước và chất melanin.

Nhà khoa học Mexico Arturo Solis Herrera và loại pin vĩnh cử mà ông chế tạo.
Nhà khoa học Mexico Arturo Solis Herrera và loại pin vĩnh cử mà ông chế tạo. (Nguồn: facebook./pages/Arturo-Solis-Herrera).

Ông Herrera, chuyên gia về mắt và hiện là Giám đốc Viện nghiên cứu và phát triển thuộc Trung tâm nghiên cứu quá trình quang hợp của Mexico, cho biết khi thực hiện một nghiên cứu về phân tử trên da, tóc và màng che võng mạc của mắt người, ông đã phát hiện ra chất melanin có khả năng phá vỡ phân tử nước, tách oxy và hydro, qua đó sinh ra điện năng và điều đặc biệt hơn là chính phân tử này còn có khả năng tập hợp lại oxy và hydro, tạo ra nước để sản sinh ra một nguồn điện năng mới.

Nhà khoa học Herrera đã đặt tên cho phát minh trên la Bat – Gen, một bộ pin có khả năng sản xuất điện không hạn chế, luôn tự nạp đầy, đồng thời còn là một máy phát điện.

Ông nhấn mạnh, quá trình nghiên cứu kéo dài 4 năm đã giúp ông phát hiện ra một vòng tuần hoàn liên tục, tách phân tử nước rồi sản sinh ra điện năng mà không gặp bất kỳ một trở ngại nào vì chất melanin tự giúp hấp thụ các tia sáng trong môi trường, cũng như trong các bức xạ điện từ ở xung quanh.