Lưu trữ danh mục: Khoa Học Và Công Nghệ

20 phát minh nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại

Gốm sứ

Thuốc súng, la bàn, xe cút kít, rượu… là những phát minh nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại, hãy cùng khám phá những phát minh đó qua bài viết dưới đây.

>>> Những phát minh “vô tình” tìm ra trong lịch sử

Gốm sứ

Đồ sứ là một phát minh vĩ đại khác vào thời Trung Hoa cổ đại. Được biết, đồ sứ xuất hiện lần đầu tiên vào triều đại nhà Thương (1600 TCN – 1046 TCN) và phát triển mạnh vào triều đại nhà Đường (618 – 906). Đến thời nhà Tống (960 – 1279) Công Nghệ sản xuất đồ sứ đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ về độ tinh xảo, kiểu dáng, hoa văn, các loại men và kỹ thuật chế tác. Sản phẩm này sau đó đã được phổ biến khắp thị trường thế giới thông qua Con Đường Tơ Lụa.

Kỹ thuật rèn sắt

Các bằng chứng khảo cổ phát hiện được cho thấy kỹ thuật rèn sắt đã được phát triển ở Trung Quốc từ đầu thế kỷ thứ 5 TCN vào thời nhà Chu (1050 TCN – 256 TCN). Đến thời Xuân Thu Chiến Quốc, nhiều cuộc chiến tranh liên miên đã tạo nên một giai đoạn hưng thịnh cho ngành luyện sắt. Đến thời nhà Hán (202 TCN – 220 SCN), triều đình đã độc quyền ngành rèn sắt này và sau đó đạt đến một trình độ điêu luyện về rèn luyện vũ khí và đồ gia dụng.

10 phát minh nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại

Có thể khẳng định rằng chiếc địa chấn kế đầu tiên có khả năng phát hiện những chấn động của Trái đất, đã được nhà bác học có tên là Trương Hành (78 – 139) phát minh ra vào thời Đông Hán. Năm 138, dụng cụ này phát hiện một trận động đất xảy ra tại một khu vực cách Lũng Tây một ngàn cây số. Đây cũng là lần đầu tiên nhân loại phát hiện một trận động đất. Chiếc địa chấn kể hiện đại chỉ bắt đầu phát triển ở châu Âu vào năm 1848.

10 phát minh nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại

Những người nông dân Trung Quốc bắt đầu sử dụng thiết bị gieo hạt từ thế kỷ thứ 2 TCN. Thiết bị này giúp cho công việc trở nên dễ dàng hơn và cải thiện sản lượng cũng như chất lượng nông sản ở Trung Quốc.

10 phát minh nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại

Chiếc bàn chải đầu tiên ở Trung Quốc được chế tạo bằng cách sử dụng lông ngựa thô, xương hoặc tre.

10 phát minh nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại

Tiền giấy đầu tiên được phát triển từ Trung Quốc cổ đại, họ bắt đầu sử dụng tiền giấy dưới dạng những chi phiếu từ cuối thế kỷ thứ 8 hoặc đầu thế kỷ thứ 9.

10 phát minh nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại
(Ảnh: Chinawhisper)

Việc phát minh ra ô dù có thể được truy nguồn về quá khứ 3.500 năm trước đây tại Trung Quốc. Theo truyền thuyết, Lỗ Bản – một người thợ mộc đã chế tạo ra chiếc dù sau khi nhìn thấy những đứa trẻ lấy lá sen để che mưa. Chiếc dù do ông chế tạo có một cái khung mềm dẻo và được phủ lên trên bằng một tấm vải.

10 phát minh nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại
(Ảnh: Chinawhisper)

Căn cứ theo cuốn “Hoàng đế Nội kinh” của Trung Quốc, châm cứu đã được sử dụng rộng rãi như một phương pháp trị liệu ở đất nước này từ rất lâu, thậm chí trước khi được ghi chép trong sách vở. Ngoài ra, khá nhiều loại kim châm cứu đã được phát hiện trong lăng mộ của Trung Sơn Tĩnh vương – Lưu Thắng; ông mất vào khoảng 200 năm TCN. Đây là bằng chứng rõ ràng cho thấy châm cứu đã được sử dụng ở Trung Quốc hơn 2.000 năm trước. Đến thế kỉ 16, châm cứu bắt đầu được truyền bá rộng rãi sang châu Âu. Sau năm 1949, khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, châm cứu được phát triển nhanh chóng. Có thể thấy mặc dù đã ra đời cách đây khá lâu nhưng cho đến ngày nay thuật châm cứu Trung Quốc vẫn không hề mất đi giá trị, thậm chí còn ngày càng được mọi người trên thế giới tin dùng.

10 phát minh nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại(Ảnh: Chinawhisper)

Chiếc đồng hồ cơ khí đầu tiên được chế tạo bởi nhà sư Nhất Hạnh vào năm 725. Nó vận hành bằng cách nhỏ nước làm quay các bánh răng và hoàn tất trọn vẹn một vòng quay trong 24 giờ. Hàng trăm năm sau đó, kỹ sư Tô Tụng (1020-1101) đã phát triển một chiếc đồng hồ tinh vi hơn vào năm 1092, khoảng 200 năm trước khi đồng hồ cơ khí được xuất hiện ở Châu Âu.

10 phát minh nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại
(Ảnh: Chinawhisper)

Theo thần thoại, trà được phát hiện lần đầu tiên bởi Thần Nông – ông tổ của ngành nông nghiệp Trung Quốc vào khoảng năm 2.737 TCN.

Vào thời nhà Đường (618-907) trà đã trở thành một thức uống phổ biến trong mọi tầng lớp xã hội. Cuốn “Trà Kinh” được viết bởi Lục Vũ vào triều đại nhà Đường đã giải thích các phương pháp pha trà, thưởng trà cũng như chi tiết về các loại trà khác nhau. Cuốn sách này được coi là tư liệu chuyên khảo đầu tiên trên thế giới về trà. Và cây trà lớn nhất và cổ nhất trên thế giới tọa lạc ở Lâm Thương, Trung Quốc, với niên đại khoảng 3.200 năm tuổi. Ở đất nước này, trà được coi là “quốc ẩm”, nó không chỉ đơn thuần là một thứ đồ uống mang tính phổ thông, mà quan trọng hơn nó còn thể hiện một nét văn hóa dân tộc.

10 phát minh nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại
(Ảnh: Chinawhisper)

In khắc gỗ là một kỹ thuật được sử dụng rộng rãi vào triều đại nhà Đường. Tuy nhiên, kỹ thuật in ấn này rất tốn kém và mất khá nhiều thời gian. Đến thời nhà Tống (960 – 1279), Tất Thăng, một nghệ nhân (990–1051) đã sáng chế ra chữ rời (hoạt tự), khiến việc in ấn trở nên nhanh chóng và dễ dàng hơn.

Đầu tiên ông khắc từng chữ một lên đất sét, rồi đem nung cứng trên lửa. Những mảnh hoạt tự có khắc chữ này sau đó sẽ được gắn lên một tấm bảng sắt để tạo thành một văn bản. Sau đó tấm bảng này sẽ được tháo rời để lấy các ký tự đất sét ra dùng lại.

10 phát minh nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại
In khắc gỗ, hay còn gọi là ấn loát điêu bản. (Ảnh: Chinawhisper)

10 phát minh nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại
Hoạt tự. (Ảnh: Chinawhisper)

Đầu tiên kỹ thuật in ấn này được truyền đến Triều Tiên, Nhật Bản, rồi thông qua người Mông Cổ truyền sang các nước phương Tây. Sự ra đời của kỹ thuật ấn loát hoạt tự đã đẩy mạnh tốc độ giao lưu, phát triển văn hóa giữa các nước trên thế giới, do đó có thể coi đây là một cống hiến to lớn của Trung Quốc đối với thế giới.

Có lẽ đây là phát minh nổi tiếng nhất của Trung Hoa cổ đại. Vào khoảng thế kỷ thứ VI, các nhà Giả Kim thuật (còn gọi là nhà Luyện đan, kiêm đạo sĩ, chiêm tinh, chuyên tìm tòi, pha chế các dược liệu, hoá chất… mong tìm ra phương thuốc “Trường sinh bất tử” dâng lên Hoàng đế), trong khi mày mò, vô tình tạo ra thuốc nổ từ diêm tiêu và lưu huỳnh. Thuốc súng đầu tiên được tạo ra từ hỗn hợp của nitrat kali, than và lưu huỳnh. Nó được miêu tả lần đầu tiên vào năm 1044 trong bộ sưu tập kỹ thuật quân sự biên soạn bởi Zeng Goliang. Tuy vậy ở thời điểm đó, thuốc nổ chỉ được ứng dụng làm pháo đốt, pháo bông phục vụ cho lễ hội vui chơi ở cung đình và được sản xuất từ các công xưởng thuộc triều đình.

La bàn

La bàn đầu tiên được gọi là “kim chỉ Nam” do người Trung Hoa phát minh rất sớm, ngay khi người ta tìm ra được từ lực và đá nam châm. Người Trung quốc xem hướng Nam là hướng của vua chúa nên dùng chữ “chỉ Nam” chớ không dùng chữ chỉ Bắc. Kim chỉ nam ngày xưa khác la bàn ngày nay. Nó có hình dáng một cái muỗng cắt ra từ một miếng nam châm thiên nhiên và được đặt trên một cái đế bằng đồng đã được mài láng để giảm ma sát. (Lúc đó người ta đã biết đồng là kim loại không có ảnh hưởng trên từ trường, và do đó, không làm lệch hướng của kim nam châm). Phần muỗng tròn láng để chính giữa đế đồng làm trọng tâm thành ra cáng của kim chỉ nam có thể quay xung quanh. Sau khi muỗng đứng im (cân bằng tĩnh) cáng muỗng chỉ hướng Nam. Trung quốc cũng được coi là nước đầu tiên dùng la bàn trong ngành hàng hải.

Giấy

Trước khi phát minh ra giấy, con người đã ghi chép lại các văn kiện là các hình vẽ trong các hang động hoặc khắc lên các tấm bia bằng đất sét và sau đó nữa là người ta dùng da để lưu trữ các văn kiện. Kể từ khi người Trung Quốc phát minh ra giấy vào năm 105, giấy đã bắt đầu được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và mãi cho đến năm 750 kỹ thuật sản xuất giấy mới lan truyền đến Samarkand qua các tù binh người Trung Quốc trong một cuộc tranh chấp biên giới. Giấy được mang đến châu Âu từ thế kỷ thứ 12 qua các giao lưu văn hóa giữa phương Tây Thiên Chúa giáo và phương Đông Ả Rập cũng như qua nước Tây Ban Nha thời kỳ Hồi giáo.

Mì ống

Có lẽ bạn sẽ cho rằng mì ống phải do người Ý nghĩ ra nhưng không, sự thực là người Trung Hoa cổ đại đã sáng tạo ra món ăn này từ 4000 năm trước. Vào năm 2006, các nhà khảo cổ học đã khai quật được một khu dân cư ở tỉnh Thanh Hải và đã phát hiện ra một bát mì sợi bị chôn vùi dưới đất 10 feet.

Món mì đầu tiên được chế biến từ hạt kê – được trồng tại Trung Quốc trong khoảng 7000 năm.

Xe cút kít

Một vị tướng thời Hán – Jugo Liang được cho là người đầu tiên xây dựng nên ý tưởng chiếc xe với một bánh dùng để chuyên chở đồ đạc. Chiếc xe cút kít đầu tiên có thiết kế đơn giản chỉ gồm các mảnh gỗ ghép lại với nhau. Ban đầu, phương tiện này phục vụ cho các mục đích quân sự như chuyên chở vũ khí, lương thực cũng như làm rào chắn di động. Người Trung Quốc đã giữ kín phát minh này trong nhiều thế kỉ.

Máy ghi địa chấn

Có thể khẳng định rằng chiếc máy ghi lại địa chấn đầu tiên đã được Chang Heng phát minh ra vào thời kỳ nhà Hán – thế kỷ thứ 2. Mặc dù chiếc máy không dự đoán chính xác được thời điểm xảy ra địa chấn nhưng nó thực sự là một tác phẩm tuyệt đẹp với chín con rồng bao quanh thân chúc đầu xuống và 9 con ếch ngồi phía dưới. Bên trong, một con lắc được treo bất động cho đến khi xảy ra địa chấn. Khi có tác động xảy ra, con lắc sẽ kích hoạt các đòn bẩy và một quả bóng sẽ thoát ra từ miệng rồng rơi vào miệng con ếch ở phía dưới.

Rượu

Khoảng đầu thế kỷ 3 trước công nguyên, người Trung Quốc đã tìm ra cách để xử lý các sản phẩm như giấm và nước tương bằng việc sử dụng Công Nghệ lên men và chưng cất. Qua đó, họ đã sáng chế ra rượu bằng phương pháp này. Các khám phá khảo cổ gần đây tại Hà Nam cũng cho thấy nhiều bằng chứng về rượu của người Trung Quốc.

Diều

Vào thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên, Gongshu Ban và Mo Di – một nhà nghệ thuật và một nhà triết học – đã sáng tạo ra chiếc diều thô sơ đầu tiên. Trải qua thời gian, người Trung Hoa đã sáng tạo và biến nó trở thành một phương tiện giải trí. Ngoài ra, diều cũng được sử dụng cho mục đích quân sự.

Tàu lượn

Như đã nói phía trên, diều được phát minh vào thế kỷ thứ 4 trước công nguyên và đến thế kỷ thứ 6, người Trung Hoa đã phát triển và tạo nên những con diều đủ lớn để có thể mang người. Hoàng đế Trung Hoa đã sử dụng những con diều này như là một “hình phạt” cũng như một thú vui khi bắt các phạm nhân bay trên đó.

Lụa

Nghề dệt lụa xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc có thể từ rất sớm khoảng năm 6000 trước công nguyên. Ban đầu, chỉ có vua mới được dùng hoặc ban tặng cho người khác; tuy nhiên sau đó thì lụa dần dần được các tầng lớp xã hội ở Trung Quốc dùng rồi lan ra đến các vùng khác của châu Á. Lụa nhanh chóng trở thành một thứ hàng cao cấp ở những nơi mà thương nhân người Hoa đặt chân tới, bởi nó bền và có vẻ đẹp óng ánh. Nhu cầu về lụa thì nhiều và nó trở thành một ngành thương nghiệp xuyên quốc gia. Tháng 7 năm 2007, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra những mẫu vải lụa được dệt và nhuộm một cách tinh xảo trong một ngôi mộ ở tỉnh Giang Tây có từ đời nhà Đông Chu (Eastern Zhou Dynasty), cách đây khoảng 2500 năm.

Bằng chứng đầu tiên về việc mua bán tơ lụa là việc phát hiện sợi tơ trong tóc của một xác ướp Ai Cập. Lụa đã được đưa tới tiểu lục địa Ấn Độ, Trung Đông, châu Âu và Bắc Phi thông qua con đường tơ lụa nổi tiếng.

Các vị vua Trung Hoa đã cố gắng giữ bí mật nghề nuôi tằm nhằm giữ thế độc quyền của người Trung Hoa. Tuy nhiên người Triều Tiên đã học được nghề này vào khoảng năm 200 T.C.N, sau đó là người Khotan cổ vào khoảng nửa đầu thế kỷ 1 C.N. và người Ấn Độ khoảng năm 300 C.N.

12 phát minh “không tưởng” của Nikola Tesla

Nhà khoa học Nikola Tesla

Nikola Tesla – kẻ điên rồ vĩ đại là một nhà khoa học nối tiếng với các ý tưởng khó tin, điên rồ khiến giới khoa học xa lánh và cho rằng ông bị điên. Nhưng chính ông là nhà phát minh, nhà khoa học vĩ đại góp công lớn trong sự phát triển của nền công nghiệp, xã hội ngày nay.

Nhà khoa học Nikola Tesla
Nhà khoa học Nikola Tesla.

Nikola Tesla là một nhà phát minh, nhà vật lý, kỹ sư cơ khí và kỹ sư điện tử được biết đến với nhiều đóng góp mang tính cách mạng trong các lĩnh vực điện và từ trường trong cuối thế kỷ 19 đầu thế kỉ 20.

Dưới đây là những ý tưởng điên rồ, không thực tế nổi tiếng khiến người ta gán cho ông biệt danh “bác học điên”.

Khai thác tia vũ trụ

Tesla từng nghĩ đến ý tưởng khai thác nguồn năng lượng miễn phí đến từ những hạt nguyên tử, các loài tia đầy rẫy trong vũ trụ. Đây là ý tưởng bị coi là khoa học giả tưởng với hầu hết các nhà nghiên cứu vì nó không thực tế.

Những Tesla lại tin rằng có thể thiết kế một chiếc máy khả thi để khai thác nguồn năng lượng này và chấm dứt vấn đề khan hiếm từ Trái Đất.

Các hạt vũ trụ siêu nhỏ này liên tục rơi xuống mặt đất với tốc độ nhanh hơn ánh sáng và ông nghĩ có thể “bắt” được chúng để chuyển đổi thành năng lượng sử dụng được. Rất tiếc, phát minh của ông chưa từng được sản xuất.

Điện cảm ứng

Tesla mơ ước một thế giới không tồn tại dây điện phức tạp. Ông đề xuất một hệ thống điện không dây bao gồm một tháp truyền điện và năng lượng không dây đến mọi ngõ ngách trên hành tinh. Ông đã chứng minh ý tưởng này qua thí nghiệm về sự truyền dẫn cảm ứng để đốt sáng một cái bóng đèn ở khoảng cách ngắn.

Ông bắt tay xây dựng tháp Wardenclyffe ở New York nhưng sau đó bị rút nguồn tài trợ của JP Morgan vì họ phát hiện ý đồ thật sự của ông chứ không phải xây dựng tháp viễn thông. Đây là bước cuối cùng trong hệ thống điện không dây của Tesla và được kết hợp với phát minh máy thu năng lượng vũ trụ. Nếu thành công, thế giới sẽ được sử dụng điện miễn phí và không giới hạn chỉ bằng một cái ăng-ten.

Phát minh của Tesla bị chính phủ phản đối kịch liệt vì nó không thu được lợi nhuận. Tuy nhiên, mới đây các nhà khoa học đã thắp sáng được bóng đèn bằng điện không dây ở khoảng cách 7 mét.

Đốt lạnh

Phát minh này hy vọng sẽ thay thế được xà phòng và nước trong sinh hoạt. Tesla muốn thay thế điện với nước vì điện là kẻ thù lớn nhất của vi trùng.

Sự đốt lạnh nghĩa là đốt cháy nhưng không gây bỏng, người ta sẽ đứng trên một tấm kim loại và được phủ trong nguồn điện luân phiên đến 2,5 triệu volt giống như một ngọn lửa trùm lên cơ thể.

Phương pháp này hiệu quả vì da người có tính dẫn điện. Nó còn có tác dụng chữa bệnh vì nguồn điện mạnh có thể sinh ra lượng lớn khí ozon khử trùng có lợi cho sức khỏe.

Vấn đề chi phí và an toàn cho người sử dụng đã biến ý tưởng “đốt lạnh” thành mơ hồ.

Teslascope

Nỗ lực lớn nhất mà Nikola Tesla luôn cố gắng là tạo ra thiết bị giao tiếp với người ngoài hành tinh.

Ông tuyên bố có thể giao tiếp với những nền văn minh xa xôi bằng Teslascope nhưng chưa có ai xác minh những gì ông nói.

Ông đã nghe thấy nhiều âm thanh khác nhau không giống bất cứ thứ gì từng biết và những tiếng click tương tự bộ mã Morse.

Sử dụng chiếc kính Teslascope của mình, ông hy vọng chứng minh sự tồn tại của sự sống trên sao Hỏa.

Máy phát tia chết chóc

Đây là phát minh nguy hiểm của Tesla trong nỗ lực chống lại chiến tranh. Death Ray – Tia chết chóc làm việc như một máy gia tốc hạt có khả năng bắn một chùm tia năng lượng cao tới khoảng cách 250 dặm để làm tan chảy mọi động cơ và máy bay chiến đấu.

Tesla đã đề xuất ý tưởng cho JP Morgan để xin tài trợ và khẳng định với dòng năng lượng 80 triệu volt, chùm tia có thể xuyên thủng bất cứ vật liệu gì.

Lập luận của ông khá thuyết phục nhưng chính phủ Anh và Mỹ đều từ chối. Nước Nga đã ủng hộ Tesla và cho chạy thử nghiệm phát minh này. Nhiều nhà lý thuyết âm mưu cho rằng chính hoạt động chế tạo này đã gây ra vụ nổ Tunguska (30/7/1908).

Điều khiển thời tiết

Một trong những thách thức lớn nhất của con người là khả năng kiểm soát thời tiết. Tesla nghĩ rằng ông có thể làm cho đất đai màu mỡ nhờ sử dụng sóng vô tuyến điện để thay đổi từ trường Trái Đất trong tầng điện ly của khí quyển, hình thành các sóng khí quyển cực mạnh điều khiển thời tiết.

Một lần nữa, thuyết âm mưu cho rằng phát minh của ông đã rơi vào tay kẻ xấu và đang được chúng sử dụng để thống trị nhân loại. Bằng chứng là sự thay đổi khí hậu, thời tiết cực đoan ngày một nhiều hiện nay.

Súng tia X

Việc phát hiện ra tia X của William Roentgen thu hút giới khoa học, đặc biệt là Tesla. Ông mở rộng phát mình thành một khẩu sung bắn tia X – quang, lợi hại cùng với Mark Twain – họ trở thành đôi bạn thân sau khi Tesla chữa khỏi bệnh táo bón cho đại thi hào này.

Sử dụng khẩu súng này, 2 ông có thể nhìn xuyên thấu bất cứ vật gì mà chùm tia đi qua ở khoảng cách 12 mét. Sáng chế tưởng chừng bị lãng quên giờ lại trở thành một ứng dụng không thể thiếu trong y học ngày nay.

Dòng điện xoay chiều

Nikola Tesla bắt đầu hợp tác với Thomas Edison năm 1882 khi ông chuyển tới Paris làm việc cho công ty Continetal Edison. Đây là thời gian đầu khi Tesla được giới khoa học công nhận tài năng. Edison đã gợi ý trả 50.000 đô cho Tesla để sửa chữa chiếc máy phát điện của mình mặc dù sau đó không thấy ông trả khoản tiền đó cho cộng sự.

Điều này buộc Tesla tách riêng và lập công ty, nơi ông phát triển loại điện mới gọi là dòng điện xoay chiều có khả năng truyền tải khoảng cách xa và tiết kiệm. Edison đã rất tức giận và kêu gọi mọi người biểu tình, thậm chí dọa đốt nhà xưởng.

Tesla đã chứng minh dòng điện của mình đủ thắp sáng bóng đèn mà không gặp bất cứ nguy hiểm nào ở triển lãm năm 1893.

Thắp sáng thế giới

Một lần nữa, Tesla muốn cho cả thế giới thấy tài năng của mình bằng sáng chế ra loại hạt khí loãng nhạy cảm với năng lượng để phát sáng cho cả hành tinh. Ông lên kế hoạch sử dụng một loại tia cực mạnh như tia cực tím bắn vào các hạt này để chúng phát sáng như hiện tượng cực quang. Ông khiến người ta cho rằng nếu thành công, con tàu Titanic sẽ chẳng bao giờ chìm xuống mãi mãi.

Máy giao động của Tesla

Tất cả vạn vật đều tạo từ nguyên tử và mỗi nguyên tử lại rung động ở tần số khác nhau. Nếu gặp phải tần số phù hợp thì sẽ cộng hưởng thành tần số rung có biên độ cao hơn. Gần giống như hiện tượng chiếc cầu treo rung lắc theo nhịp của một cơn gió nhẹ cũng đủ để nó sập.

Dựa vào lý thuyết ấy, Tesla phát minh chiếc máy phá hủy bỏ túi tạo ra những tần số rung khác nhau. Ông kể lại là khi bật chiếc máy đó lần đầu tiên, một tiếng động lạ vang lên và những vết nứt đầu tiên xuất hiện. Mọi thứ rung lên bần bật cho tới khi cảnh sát ập tới đạp vỡ cái máy trước khi tòa nhà sụp đổ.

Khi được hỏi về cách cái máy có thể phá hủy được tòa nhà Empire State không. Tesla trả lời rằng chỉ cần có đủ thời gian tìm ra tần số phù hợp, chiếc máy sẽ truyền một lượng lớn năng lượng cơ học để phá hủy bất cứ thứ gì.

Phát minh của ông được nhiều người ủng hộ vì chứa một sức mạnh to lớn trong chữa bệnh nếu nó tìm đúng tần số rung của khối u, của căn bệnh trong cơ thể để phá hủy hoàn toàn mà không ảnh hưởng đến những bộ phận khác.

Điều khiển từ xa

Tesla đã phát minh ra chiếc điều khiển từ xa đầu tiên trong lịch sử. Trước khi nó được gọi là “điều khiển từ xa” (remote control), Tesla gọi phát minh của ông là “thiết bị tự động từ xa” (teleautomaton) và đã công bố nó tại Madison Square Garden ở New York vào năm 1898.

Thay vì sử dụng tia hồng ngoại như điều khiển TV truyền thống, teleautomaton của Tesla sử dụng sóng radio. Ông từng dùng nó để điều khiển một chiếc thuyền đồ chơi nhỏ trong buổi ra mắt công chúng năm 1898. Chiếc thuyền này được tích hợp một bộ ăng-ten để nhận sóng radio phát ra từ điều khiển.

Tesla tìm cách thương mại hoá cả bộ điều khiển và chiếc tàu đồ chơi này, nhưng công chúng đơn giản là không hứng thú. Tuy nhiên, ý tưởng này lại dần được đón nhận qua nhiều năm, và điều khiển từ xa ngày nay có thể được tìm thấy ở mọi hộ gia đình.

Đèn neon

Dù Tesla không trực tiếp phát minh ra đèn neon, ông đóng vai trò quan trọng trong việc cải tiến phát minh này.

5 năm trước buổi ra mắt teleautomaton nói trên, Tesla đã giới thiệu một phiên bản đèn neon cải tiến tại Triển lãm Thế giới Chicago. Trong sự kiện này, Tesla cho người xem thấy loại đèn này có thể được uốn cong và đúc thành nhiều hình dáng và chữ cái khác nhau.

Tính năng đặc sắc này của đèn neon, mà bạn có thể thấy trong nhiều quán bar và câu lạc bộ ngày nay, đã được phát triển bởi Tesla. Và thành thật mà nói, một trong những điểm tuyệt vời nhất của đèn neon chính là khả năng đúc khuôn của nó! Hãy cảm ơn Tesla đi nào.

Dù cuối đời, Tesla ra đi trong cô độc và túng thiếu, những phát minh ông tạo ra trong suốt cuộc đời mình đã dọn đường cho Công Nghệ mà chúng ta không thể sống thiếu ở thời hiện đại ngày nay. Có thể nói rằng, Tesla là một trong những nhà phát minh vĩ đại nhất của mọi thời đại, và hãy hi vọng chúng ta sẽ được thấy thêm nhiều thiên tài như ông trong tương lai.

Những phát minh kỳ dị, khó hiểu của người xưa

Chiếc cũi bằng lồng kim loại

Vào những năm 1900, một số nhà sáng chế cho ra đời những phát minh “dị nhất quả đất”. Dù mục đích của họ là giúp cuộc sống của con người tốt đẹp hơn nhưng tính ứng dụng thực tế không cao.

Chiếc cũi bằng lồng kim loại
Năm 1937, một số gia đình ở London, Anh lắp đặt một chiếc cũi bằng lồng kim loại treo ở ngoài cửa sổ một tòa nhà cao tầng. Đứa trẻ nằm trong chiếc cũi đặc biệt này để hít thể khí trời và sưởi nắng. Không phải phụ huynh nào cũng đủ dũng cảm sử dụng phát minh “dị nhất quả đất” này.

Ván lướt có trang bị động cơ.
Vào năm 1948, Joe Gilpin giới thiệu tới công chúng ván lướt có trang bị động cơ. Nhờ sáng chế kỳ quái này, người đàn ông mặc vest lịch lãm, vừa hút thuốc và lướt ván trên hồ nước.

Một phát minh súng máy kỳ quái với phần nòng cong.
Một phát minh súng máy kỳ quái với phần nòng cong. Nhiều người đánh giá khi sử dụng vũ khí này sẽ không bắn trúng mục tiêu do viên đạn sẽ bay lệch mục tiêu. Thậm chí, nó có thể gây nguy hiểm cho người dùng.

Thiết bị giúp quý ông hút thuốc trong những ngày mưa.
Robert L. Stern sáng chế ra thiết bị giúp quý ông hút thuốc trong những ngày mưa. Theo đó, một chiếc ô nhỏ xíu ở phía trên giúp điếu thuốc không bị tắt. Tuy nhiên, nhiều người hoài nghi hiệu quả thực tế của nó.

Thiết bị giúp người dùng hút hàng chục điếu thuốc lá cùng lúc.
Vào những năm 1950, một sáng chế kỳ quái ra đời là thiết bị giúp người dùng hút hàng chục điếu thuốc lá cùng lúc.

Bánh xe phát sáng
Bánh xe phát sáng
ra đời năm 1961. Khi di chuyển vào buổi tối, những bóng đèn trong vành xe sẽ khiến chiếc xe trở nên nổi bật.

Phòng tắm hơi nhỏ gọn
Phòng tắm hơi nhỏ gọn
xuất hiện ở Phần Lan năm 1962. Mọi người có thể dễ dàng mang nó đi khắp nơi.

Mũ tắm đặc biệt
Vào năm 1970, mũ tắm đặc biệt ra đời sẽ giúp người dùng không bị ướt tóc khi sử dụng vòi hoa sen tắm.

Máy cuộn spagetti
Nhà phát minh người Pháp Alain Dham cho ra đời máy cuộn Spaghetti năm 1968. Nó có thể tự động quấn mì giúp người dùng thưởng thức món ăn này dễ dàng hơn.

Tẩu hút thuốc đôi
Tẩu hút thuốc đôi
xuất hiện ở Mỹ năm 1949. Nhờ phát minh quái dị này, 2 người đàn ông có thể hút thuốc cùng lúc.

Những phát minh thú vị nhất của NASA, tưởng xa vời mà ai cũng thường sử dụng

Nệm foam hoạt tính

Bạn không cần phải là một phi hành gia để tận hưởng những điều thú vị mà NASA đã phát minh ra.

Cơ quan Quản lý Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Mỹ (NASA) thường được biết tới với các dự án như tạo ra những hệ thống kính thiên văn đầy tham vọng có thể nhìn thấy thời điểm bắt đầu của vụ trụ, hay đưa con người lên mặt trăng rồi quay trở lại. Nhưng, ít ai biết rằng nó cũng chịu trách nhiệm cho các sản phẩm như áo tắm, Công Nghệ phẫu thuật mắt và cách bạn chụp ảnh tự sướng.

Các sản phẩm hàng ngày được liệt kê dưới đây chỉ là 15 trong số hơn 2.000 sản phẩm tiêu dùng đến từ các chương trình vũ trụ của NASA. Tất cả đều dựa trên Công Nghệ và khám phá do NASA trực tiếp phát triển, hợp tác với NASA hoặc thông qua tài trợ của NASA.

Nệm foam hoạt tính

Nếu nệm, gối, đi văng, sofa hoặc bất cứ thứ gì của bạn có chứa foam hoạt tính, hay còn gọi là “đệm nhớ” do khả năng trở lại hình dạng ban đầu sau khi sử dụng, thì bạn có thể cảm ơn NASA. Vật liệu này được phát triển bởi kỹ sư hàng không Charles Yost do NASA tài trợ và ban đầu được sử dụng để tạo ra những chiếc ghế máy bay có thể hấp thụ va chạm tốt hơn cho các phi công trong nhiều thử nghiệm.

Chuột máy tính cổ điển

Chuột máy tính được phát minh tại Đại học Stanford vào đầu những năm 1960 bởi Doug Englebart, dựa trên một nghiên cứu về đầu vào máy tính tương tác được NASA tài trợ. Nghiên cứu này được thực hiện bởi chuyên gia về khoa học máy tính có tên Bob Taylor của NASA.

Nhiệt kế hồng ngoại

Nếu bạn từng kiểm tra nhiệt độ của mình bằng nhiệt kế hồng ngoại, thì hãy nhớ rằng bạn sẽ không thể làm được điều đó nếu không có NASA. Cơ quan vũ trụ Mỹ đã phát triển các nhiệt kế hồng ngoại để đo nhiệt độ của vật thể vũ trụ ở xa, và Công Nghệ này cuối cùng đã tìm ra cách để xuất hiện trong các ngôi nhà, thông qua việc trở thành bộ phận quan trọng của nhiệt kế gia đình.

Đồ bơi hiệu suất cao

Hầu hết chúng ta không thường xuyên mặc đồ bơi hiệu suất cao, nhưng những vận động viên bơi lội như Michael Phelps thì sử dụng chúng một cách thường xuyên. Bộ đồ bơi LZR Racer của Speedo – trang phục được lựa chọn cho những vận động viên bơi lội ưu tú – ra mắt vào năm 2008 và có các đặc tính động lực học dưới nước độc đáo đã ra đời sau quá trình thử nghiệm trong đường hầm gió tại Trung tâm Nghiên cứu Langley của NASA.

Máy ảnh điện thoại dị động

Các cảm biến hình ảnh được sử dụng trong hầu hết các máy ảnh kỹ thuật số hiện đại có nguồn gốc trực tiếp từ NASA. Eric Fossum, một nhân viên của Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA, là người đầu tiên sử dụng Công Nghệ CMOS trong máy ảnh. Mục tiêu ban đầu là tạo ra một hệ thống camera tốt hơn, rẻ hơn và hiệu quả hơn cho tàu vũ trụ, nhưng Công Nghệ này nhanh chóng được phổ biến trên toàn thế giới.

Ô tô tự lái

Chúng ta có thể được sử dụng Công Nghệ này một cách phổ biến hơn trong tương lai gần nhờ nhóm Công nghệ và Khoa học Lượng tử của Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA, với các dự án bắt đầu vào những năm 1980. Trong số các phát minh của họ có một thứ sở hữu cái tên đầy gợi cảm là “bộ cộng hưởng quang học chế độ thì thầm trong thư viện”. Đó là một bộ cộng hưởng hình cầu cho sóng ánh sáng. Cho đến gần đây, Công Nghệ này mới được sử dụng trong thực tế, khi nó được tích hợp vào hệ thống LiDAR dành cho ô tô tự lái.

Phẫu thuật Lasik

Trong một nỗ lực để xác định việc thiếu trọng lực ảnh hưởng đến chuyển động của mắt như thế nào, NASA đã tiến hành một loạt thí nghiệm trên Trạm Vũ trụ Quốc tế vào giữa những năm 2000. Kết quả mang lại không hữu ích cho lắm, nhưng Công Nghệ theo dõi mắt được phát triển dựa trên nó đã giúp ích rất lớn cho các thí nghiệm sau đó, giúp các ca phẫu thuật điều chỉnh thị lực LASIK có thể thực hiện được.

tròng kính chống xước

Đã có nhiều loại mắt kính chống xước ra đời, nhưng không có thứ gì tốt bằng Công Nghệ trên dòng kính Survivor của Ray-Ban, bởi nó được cấp phép Công Nghệ từ NASA. NASA đã đi tiên phong trong việc phủ các màn hình dụng cụ nhạy cảm bằng một loại carbon giống kim cương để làm cho chúng có khả năng chống xước gấp 10 lần so với các phương pháp khác. Điều này có thể là hơi quá mức cần thiết đối với kính râm, nhưng nó vẫn khá tuyệt vời.

Hệ thống kiểm soát không lưu

Cục Hàng không Liên bang Mỹ và NASA gần đây đã hoàn thành việc phát triển một hệ thống cải tiến để quản lý các chuyến bay trên mặt đất. Nó có tên gọi tắt là IADS (Integrated Arrival, Departure, and Surface (IADS)) hiện đã được thiết lập tại 27 sân bay bận rộn nhất của Mỹ.

Mặt đường có rãnh

Ngay cả khi bạn không nhận thấy, toàn bộ thế giới đã bớt trơn trượt hơn nhờ có NASA. Cụ thể, các nhà nghiên cứu của NASA đã chứng minh rằng việc cắt các rãnh mỏng trên đường băng bê tông để tạo ra các kênh dẫn nước thừa thoát ra ngoài làm giảm nguy cơ tai nạn do trơn trượt tại sân bay. Kết quả là, hàng trăm sân bay thương mại trên khắp thế giới đã được bố trí rãnh an toàn, sau đó thậm chí cả trên đường cao tốc. Quy trình tạo rãnh an toàn cũng đã được áp dụng cho các đường cong và cầu vượt, sau đó là lối đi dành cho người đi bộ, đường dốc và bậc tam cấp, rồi tới các nhà máy chế biến thực phẩm và chuồng gia súc.

Công nghệ này cũng đã được chứng minh là có khả năng khôi phục hiệu suất ma sát ướt đối với bề mặt đường mòn hoặc nhẵn và kéo dài tuổi thọ của chúng từ 5 đến 10 năm, giúp tiết kiệm đáng kể chi phí bảo trì.

Chăn cứu hộ khẩn cấp

Những chiếc chăn cứu hộ mỏng dính được đóng gói trong bộ dụng cụ sơ cứu và thường được phát khi kết thúc các cuộc chạy marathon được NASA phát triển vào năm 1964. Vật liệu của nó được tạo ra bằng cách cho nhôm bốc hơi lên bề mặt nhựa mỏng và hiện được sử dụng trong việc cắm trại, tấm chắn nắng, kính viễn vọng không gian… Như một tấm chắn, nó phản xạ nhiệt trở lại cho bất kỳ ai hoặc thứ gì được quấn trong đó.

Giày Nike Air

Đôi giày thể thao này là sản phẩm chứa đựng tới hai cải tiến của NASA. Quá trình đúc cao su cứng của giày thể thao được thực hiện thông qua Công Nghệ “đúc cao su thổi”, một quy trình tiên phong tại NASA để sản xuất mũ bảo hiểm. Còn vật liệu hấp thụ sốc được sử dụng trong Nike Air đến từ kỹ sư Frank Rudy của NASA.

Sữa công thức

Trong khi nghiên cứu các chiến lược dinh dưỡng cho những chuyến du hành tới sao Hỏa trong tương lai, các nhà khoa học NASA đã phát hiện ra nguồn tự nhiên cho một loại axit béo omega-3 trước đây chỉ có trong sữa mẹ. Thành phần này hiện được sử dụng trong hầu hết các loại sữa công thức dành cho trẻ em trên thị trường.

Máy hút bụi không dây

Hãng Black and Decker đã hợp tác chặt chẽ với NASA trong những năm 1960 để sản xuất máy khoan không dây, búa và các công cụ khác để tạo ra các sản phẩm có thể hoạt động trong môi trường trọng lực thấp (hoặc không trọng lực). Và giờ đây, bạn có thể thấy Công Nghệ này trong hàng loạt máy hút bụi không dây trên thị trường.

Lọc nước

Mặc dù các bộ lọc nước cơ bản đã tồn tại từ giữa những năm 1950, nhưng phải đến khi NASA bơm tài nguyên vào nghiên cứu của mình cho chương trình Apollo vào năm 1963 thì các hệ thống lọc hiện đại mới bắt đầu xuất hiện. NASA đã dẫn đầu nghiên cứu về lĩnh vực này vì họ cần một lượng lớn nước sạch lưu trữ thời gian dài trong điều kiện khắc nghiệt bên ngoài không gian.

Để đạt được mục tiêu này, NASA đã phát triển một hệ thống hoạt động bằng cách sử dụng khả năng hấp thụ các chất ô nhiễm và hạt vật chất có trong nước khi được xử lý đặc biệt với than củi. Phương pháp xử lý này – về cơ bản là một quá trình oxy hóa mở ra hàng triệu lỗ chân lông nhỏ giữa các nguyên tử cacbon trong than củi – khuếch đại khả năng hấp thụ của than củi, với diện tích bề mặt xốp, lớn đã tạo ra nhiều vị trí để các chất ô nhiễm liên kết hóa học với nó thông qua lực hút. Điều này làm cho nước thu được không có tạp chất.

Bộ vi xử lý - Microprocessor

Về mặt kỹ thuật, NASA không phát minh ra mạch tích hợp, thay vào đó phát minh này xuất hiện vào năm 1958 bởi kỹ sư điện Jack Kilby, tuy nhiên NASA đã phát minh ra các biến thể mới hơn và tiên tiến hơn của mạch tích hợp.

Chương trình Apollo của NASA đã khởi động cuộc cách mạng vi mạch, với việc chính phủ Hoa Kỳ đã thu mua hơn 60% mạch tích hợp trong nước những năm 1960.

Một trong những ứng dụng cao cấp đầu tiên của Công Nghệ vi mạch là trong máy tính hướng dẫn Apollo với giao diện DSKY, được sử dụng để cung cấp khả năng tính toán và điều khiển trên tàu để điều hướng, cũng như điều khiển mô-đun chỉ huy và mô-đun Mặt Trăng.

Ngày nay, các mạch tích hợp có thể được tìm thấy trong hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ điện thoại di động và máy tính cá nhân đến lò vi sóng – điều này chủ yếu nhờ vào quá trình xử lý và sản xuất vi mạch rẻ tiền từ Chương trình Apollo của NASA.

Mũ bảo hiểm

Vào những năm 1970 , NASA đã phát minh ra bọt ủ, một vật liệu hấp thụ sốc được thiết kế để cải thiện độ an toàn của đệm máy bay. Loại bọt ủ này sau đó được trang bị cho mũ bảo hiểm và ghế ngồi của tàu vũ trụ Apollo, đây là một lớp lót giúp giảm thiểu một số lực cực đoan mà các phi hành gia sẽ phải chịu.

Bọt ủ là một loại polyurethane được xử lý bằng các Hóa Chất bổ sung có cả độ nhớt và mật độ cao, các đặc tính lý tưởng để hấp thụ các tác động đáng kể và chống lại dòng năng lượng. Bọt có tính đàn hồi nhớt và nhạy cảm với nhiệt độ, nghĩa là khi được ép vào nguồn nhiệt, nó có thể tạo ra hình dáng theo khuôn.

Loại bọt ủ ban đầu được tùy biến thành bọt xốp cách nhiệt và được tung ra thị trường vào đầu những năm 1980, sau đó nó nhanh chóng được sử dụng trong các thiết bị y tế như nệm xốp cách nhiệt và dụng cụ thể thao như mũ bảo hiểm bóng bầu dục Mỹ và mũ bảo hiểm xe máy, xe đạp.

Truyền hình vệ tinh

Có lẽ không có gì ngạc nhiên khi Nasa cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát minh ra truyền hình vệ tinh. Vệ tinh đầu tiên có khả năng chuyển tiếp tín hiệu TV là Telstar 1, được cơ quan này phóng vào năm 1962.

Nó bắt đầu như một dự án hợp tác giữa Phòng thí nghiệm Bell để phát triển một hệ thống liên lạc vệ tinh thử nghiệm trên Đại Tây Dương. Sau đó, Nasa tiếp tục phát triển Công Nghệ này nhằm tạo ra các hệ thống tiên tiến hơn để giảm tiếng ồn và lỗi trong tín hiệu được truyền, dẫn đến khả năng truyền video và âm thanh độ nét cao.

Cha đẻ của máy ATM?

ATM (Automatic Teller Machine) – là một thiết bị tự động cho phép các khách hàng của nhà băng rút tiến và kiểm tra tài khoản (compte bancaire, account) của họ mà không cần nhân viên ngân hàng, không cần phải tới nhà băng của mình vì bất cứ máy ATM nào cũng có thể dùng được. Có nhiều ATM cũng có thể cho phép gởi tiền hay chuyển tiền từ những ngân khoản của họ.


1: Nhấn thẻ;
3: Viết trả lời những gì máy hỏi nơi màn hình;
2: Tiền sẽ được đưa ra.

Ai đã sáng chế ra máy phát tiền?

Nhiều người bàn cãi về chuyện ai là cha đẻ của máy phát tiền tự động ATM. Có người cho là nhà phát minh Thổ Nhĩ Kỳ Luther George Simjian. Có người cho là Don Wetzel. Một số khác cho là John Shepherd-Barron. John D. White tiếp xúc với ATMmachine.com và đưa ra nhiều lý lẽ rất hiển nhiên rằng John Shepherd-Barron là người phát minh ra ATM chớ không phải Don Wetzel. Cũng như John D. White, James Goodfellow người Tô Cách Lan (Scotland) cũng liên lạc với ATMMachine.com và kết luận giống như White. Khi bằng phát minh của máy ATM mà ta biết chưa áp dụng nhiều năm sau Simjian thì sự nhầm lẫn vẫn còn. Lý do của sự nhầm lẫn là John Shepherd-Barron ở vương quốc Anh, James Goodfellow ở Scotland trong lúc những người khác thì ở Hoa Kỳ.

Luther George Simjian

Vào những năm của thập niên 30, Luther George Simjian bắt đầu làm một kiểu ATM không được thành công cho mấy, nhưng ông đã đăng ký bằng phát minh. Ông là người đầu tiên có ý sáng tạo ra một cái máy để trong một cái lỗ của bức tường để khách hàng giao dịch tài chính (financial transaction). ý tưởng này gặp sự nghi ngờ lớn. Bắt đầu năm 1939, Simjian đăng ký 20 bằng sáng chế cho việc này và thuyết phục một ngân hàng mà ngày nay là Citicorp cho ông thử. Sau 6 tháng, nhà băng cho là nhu cầu tiêu thụ ít .

John Shepherd-Barron:

James Goodfellow

Là kỹ sư phát triển cho công ty Smiths Industries Ltd, . Năm 1965 James Goodfellow đưa ra đề án phát triển một máy phát tiền mặt tự động . Chubb Lock & Safe Co. lo sản xuất ra thiết bị chứa an toàn và máy móc cho ATM. Lẽ đương nhiên là ông Goodfellow thiết kế một hệ thống có thể chấp nhận thẻ có thể đọc được những encrypted của máy, nơi đó ông thêm vào keypad số (numeral keypad) . Phát minh của ông được bằng sáng chế vương quốc Anh số 1,.197,183, ngày 2 tháng 5, 1966 và bằng sáng chế Mỹ số 3,905,461 bảo vệ và được bảo vệ trên nhiều nước khác. Bằng sáng chế Mỹ của ông vẫn còn miêu tả chức năng của ATM sau gần 40 năm. Những máy này được đưa ra thị trường bời công ty Chubb LTD và được thiết bị cho toàn nước Anh vào thập niên 60 và đầu thập niên 70. Chúng ta có thể đọc nơi đây: ATM inventor James Goodfellow’s story here on ATMmachine.com.

Don Wetzel, Tom Barnes và George Chastain

Năm 1968, nhân cuộc phỏng vấn của NMAH, Don Wetzel, phó giám đốc Kế hoạch sản phẩm (Product Planning) tại Docutel, một công ty phát triển máy quản lý hành lý tự động nói là ông đã bảo vệ bằng sáng chế máy ATM với hai cộng sự viên là Tom Barnes, kỹ sư cơ học, và George Chastain, kỹ sư điện. Don Wetzel dùng 5 triệu dollars để phát triển máy ATM của họ.

John D. White

John D. White nói tại trang web ATMmachine.com rằng công trình của ông bắt đầu từ năm 1968. Ông nói là máy ATM đầu tiên được đặt tại Rockville Center, LI rồi sau đó tại Chemical Bank vào tháng 8 năm 1973. Thiết kế của ông được bảo vệ ngày 9/5/1973 cho tổng công ty Docutel Corporation. Máy được đặt tên là “Credit Card Automatic Currency Dispenser”. Ông White cung cấp văn bằng phát minh có tên John D. White và Kenneth Goldstein, Docutel Corporation ký trên văn bằng. Máy của ông giống máy ATM hiện đại, nghĩa là “cả hai code, nguyên thủy và cập nhậ, đều được đổi khóa để chống trộm”, giống như máy thời nay. Máy ATM được lập trình với các khóa an toàn, các mật mã (code) được thay đổi và làm khuấy trộn giữa ATM, nhà băng và bộ xử lý mạng (network processor) để ngăn ngừa những sự dùng gian lận thẻ tín dụng để vô máy ATM.

Tranh giành chức cha

Sự trao tặng huân chương cho John Shepherd Barron không làm cho James Goodfellow bằng lòng. Ông kể rằng ông được giao phó làm dự án máy phát tiền tự động, và để bảo đảm an toàn cho khách hàng, ông đã tưởng tượng ra tất cả, kể cả cách dùng chỉ tay, nhận tiếng nói hay dùng sinh trắc học (biometry). Ông khẳng định rằng chính ông là tác giả của khái niệm (conception) về thẻ crypté, nhờ số mật mã riêng.

John Shepherd-Barron lại nói rằng ông chưa từng nghe ai nói về James Goodfellow và nhắc lại rằng chính ông là người đầu tiên xây dựng máy phát tiền chạy bằng các tấm chèque từ (chèque magnétique) được mã hóa bằng carbon phóng xạ C14.

Phát minh “Siêu Chi” giúp phi hành gia đứng vững trên Mặt trăng

Hai "chi phụ" đằng sau có thể giúp phi hành gia dễ dàng đứng dậy khi ngã

Các nhà khoa học thuộc Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) phát minh ra “SuperLimbs” (Siêu tay siêu chân) có thể giúp các phi hành gia đứng dậy khi ngã.

Theo một nghiên cứu của Đại học Michigan, lực hấp dẫn của Mặt trăng chỉ bằng 1/6 lực hút trên Trái đất, nên việc giữ thăng bằng của các phi hành gia trở nên khó khăn. Trong lịch sử thám hiểm, 12 phi hành gia tham gia sứ mệnh Apollo trước đây của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) đi bộ trên Mặt trăng đã ngã 27 lần và thêm 21 lần suýt ngã.

Khi phi hành gia Charlie Duke bị ngã trên Mặt trăng vào năm 1972 trong khi thực hiện các thử nghiệm trên vệ tinh này, ông đã mất 3 lần mới đứng dậy được. Nghiên cứu phát hiện ra rằng sự cố ngã thường xảy ra hơn khi các phi hành gia đang thu thập mẫu hoặc sử dụng các công cụ.

Hai "chi phụ" đằng sau có thể giúp phi hành gia dễ dàng đứng dậy khi ngã
Hai “chi phụ” đằng sau có thể giúp phi hành gia dễ dàng đứng dậy khi ngã trong môi trường ít trọng lực. (Ảnh: MIT).

Đứng trước yêu cầu NASA sẽ sớm đưa con người trở lại Mặt trăng và thực hiện các nhiệm vụ chưa từng làm trước đây như xây dựng căn cứ cho người ở hay thực hiện các chuyến đi dài hạn, trong suốt một thập kỷ, ông Harry Asada – một giáo sư tại MIT – nung nấu ý tưởng về một bộ đồ có khả năng hỗ trợ các phi hành gia khi ngã. Kể từ đó, SuperLimbs ra đời.

Theo bà Ana Diaz Artiles – trợ lý giáo sư kỹ thuật hàng không vũ trụ tại Texas A&M, việc trang bị thêm hai chi phụ nằm trong ba lô sau lưng hỗ trợ phi hành gia đứng dậy có thể giúp các phi hành gia tiết kiệm năng lượng. Bên cạnh đó, bụi Mặt trăng “siêu độc” nên việc lăn trên bề mặt vệ tinh này khi phi hành gia cố gắng đứng dậy có thể gây hại cho phi hành gia.

Ông Erik Ballesteros – một nghiên cứu sinh tại MIT đồng thời tham gia thiết kế – cho biết hệ thống SuperLimbs cần được cải tiến thêm một chút, nhưng ông hy vọng nó sẽ sẵn sàng để ứng dụng vào tháng 1, khi nó giúp một ma-nơ-canh đứng dậy từ tư thế nằm sấp.

Với sự phát triển của Công Nghệ, ông Erik hy vọng trong vòng một hoặc hai năm tới, hệ thống sẽ sẵn sàng để ứng dụng cho con người, nhưng trước tiên nhóm nghiên cứu cần tìm hiểu rất nhiều về vấn đề an toàn. “Chúng tôi không thể chỉ dùng băng keo và ghép mọi thứ lại với nhau; chúng tôi phải rất chính xác và rất cẩn thận”, vị nghiên cứu sinh cho hay.

Ngoài ra, nhóm nghiên cứu có thể đối mặt với nhiều thách thức khác. Tiến sĩ Jonathan Clark, giáo sư lâm sàng về Thần kinh học và Y học Không gian tại Cao đẳng Y Baylor, người từng là bác sĩ phẫu thuật cho phi hành đoàn trong 6 chuyến bay tàu con thoi của NASA, nói với CNN rằng môi trường khắc nghiệt của không gian – từ nhiệt độ, đến các hạt gây ô nhiễm như bụi, bức xạ điện từ – có thể khiến việc phê duyệt Công Nghệ này để sử dụng ngoài không gian trở nên tốn kém và kéo dài lên tới hàng năm.

Bên cạnh tác dụng nâng đỡ phi hành gia, nhà nghiên cứu Ballesteros cho biết các chi phụ này có thể giúp phi hành gia di chuyển nhanh hơn hoặc nhóm đang nghiên cứu để tận dụng nó hỗ trợ các nhiệm vụ như khai quật, xử lý mẫu và xây dựng.

Trong lịch sử thám hiểm không gian, các phi hành gia Apollo 17 giữ kỷ lục về thời gian đi bộ trên Mặt trăng lâu nhất, với 7 giờ 37 phút.

Ai đã phát minh ra khẩu súng đầu tiên?

Các nhà khoa học cho rằng hỏa thương của Trung Quốc là khẩu súng đầu tiên.

Súng đã tồn tại hơn 1.000 năm, ảnh hưởng đến chiến tranh và xã hội nói chung theo cách mà có lẽ không có phát minh nào so sánh được.

Từng chỉ được coi là vũ khí của các lực lượng quân sự trên thế giới nhưng giờ đây, súng được coi là vật sở hữu của người dân tại nhiều quốc gia trên thế giới. Câu chuyện về loại vũ khí này bắt nguồn tại Trung Quốc vào khoảng năm 850, khi các nhà giả kim thuật vô tình tạo ra thuốc súng trong quá trình cố gắng phát triển “suối nguồn tuổi trẻ”. Loại bột tạo ra khi đó được gọi là huo yao, là sự pha trộn của than, diêm tiêu và lưu huỳnh.

Người Trung Quốc nhanh chóng biết loại bột mà họ tìm ra có thể được sử dụng trong chiến tranh. Từ thời nhà Tống, người Trung Quốc đã sử dụng thuốc súng để chống lại quân Mông Cổ, những kẻ xâm lược vào đất nước này.

Các nhà khoa học cho rằng hỏa thương của Trung Quốc là khẩu súng đầu tiên.
Các nhà khoa học cho rằng hỏa thương của Trung Quốc là khẩu súng đầu tiên.

Người Trung Quốc tấn công quân Mông Cổ bằng hỏa thương, hay còn gọi là “flying fire”. Thủa ban đầu, loại vũ khí này gồm một ống (thường làm bằng tre) chứa thuốc súng và một que diêm cháy chậm buộc vào ngọn giáo. Khi được đốt cháy, thuốc súng sẽ phát nổ, giải phóng ra luồng lửa theo hướng xác định.

Sau này, nhiều loại vũ khí hơn làm từ thuốc súng đã được người Trung Quốc hoàn thiện trong quá trình chống quân Mông Cổ trong nhiều thế kỷ tiếp theo, bao gồm cả đại bác và lựu đạn.

Thuốc súng đến châu Âu vào thế kỷ 13, có thể là qua các tuyến đường thương mại con đường tơ lụa. Các quốc gia ở châu lục này đã chế biến thuốc súng trong những thế kỷ tiếp theo rồi cuối cùng tìm ra công thức hỗn hợp tối ưu: 75% diêm tiêu, 15% than củi và 10% lưu huỳnh.

Đến năm 1350, pháo thuốc súng thô sơ trở nên phổ biến trong quân đội Anh và Pháp. Quân đội 2 nước đã dùng những phát minh này trong chiến tranh trăm năm (Hundred Years’ War) để chống lại nhau.

Trong nhiều thế kỷ tiếp theo, những khẩu đai bác mới và cải tiến được thiết kế, trong đó nhiều khẩu nhỏ và có thể di chuyển được. Cuối cùng, pháo cầm tay được phát triển vào đầu thế kỷ 15. Đây chính là khẩu súng cá nhân đầu tiên được phát minh. Quân đội Ottoman đã sử dụng loại pháo này và các khẩu đại bác khác trong cuộc vây hãm Constantinople vào năm 1453. Các loại vũ khí mới mạnh mẽ hơn về cơ bản khiến những công sự với tường bao quanh truyền thống của châu Âu trở nên yếu đuối hơn và không thể phòng thủ.

Pháo cầm tay được coi là khẩu súng cá nhân đầu tiên.
Pháo cầm tay được coi là khẩu súng cá nhân đầu tiên.

Các nhà sử học thường coi hỏa thương của Trung Quốc là khẩu súng đầu tiên của loài người. Nhưng đến trước thế kỷ 15, súng vẫn rất khó bắn, chúng cần cả 2 tay để cầm và bấc để đốt cháy.

Việc phát minh ra hỏa mai mồi thừng (matchlock) đã giúp những hạn chế của súng được giảm bớt. Ưu điểm của nó là có khóa nòng, báng và ốp tay vì vậy người dùng có thể đặt báng vì lên vai, dùng mắt ngắm và khai hỏa cùng một lúc. Tuy nhiên việc phát mình này và sự ra đời của súng hỏa mai cũng mới chỉ là bước đầu bởi nó vẫn khá cồng kềnh, chỉ có thể bắn 1 lần trong 2 phút.

Sau này, súng dần dần được cải tiến, gọn nhẹ và dễ sử dụng hơn. Nó từ từ thay thế các loại vũ khí cũ vì tiết kiệm thời gian hơn rất nhiều. Cần phải tập luyện cả đời để trở thành một kiếm sĩ hoặc cung thủ sở hữu kỹ năng cao nhưng chỉ cần vài tuần hoặc vài tháng huấn luyện là có thể biến một người bình thường thành xạ thủ điêu luyện.

Phát minh ra loại bột có thể hấp thụ khí CO2 hiệu quả hơn cây xanh

Cấu tạo phân tử COF-999.

Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature vào 23/10, có một loại bột có thể giúp hút khí carbon dioxide còn hiệu quả hơn cả trồng cây.

Một cây thông thường trong quá trình phát triển, có thể hút tới 40kg carbon dioxide ra khỏi không khí trong suốt một năm. Giờ đây, các nhà khoa học tại Trường đại học Berkeley cho biết họ có thể làm công việc tương tự với khoảng 200 gram bột màu vàng mịn.

Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature vào 23/10, các hạt bột đó những lỗ cực nhỏ có thể giữ khí nhà kính trong đó. Sau đó, họ sẽ thu khí nhà kính từ trong bột đó rồi đêm trữ ở một nơi nào đó để khí không thể góp phần vào hiện tượng nóng lên toàn cầu. Trong các cuộc thử nghiệm, vật liệu vẫn ở có hiệu suất tốt sau 100 chu kỳ như vậy,.

Omar Yaghi, một nhà hóa học lưới tại Trường đại học Berkeley và là tác giả chính của nghiên cứu cho biết Nó hoạt động rất tốt: “Dựa trên độ ổn định và hoạt tính của vật liệu hiện tại, chúng tôi nghĩ rằng nó sẽ hoạt động trong hàng nghìn chu kỳ”.

Cấu tạo phân tử COF-999.
Cấu tạo phân tử COF-999.

Được gọi là COF-999, bột này có thể được triển khai trong các loại nhà máy thu khí trực tiếp quy mô lớn đang bắt đầu hoạt động để giảm lượng carbon trong khí quyển.

Các nhà khoa học cho biết, việc duy trì nồng độ carbon dioxide trong khí quyển dưới 450 phần triệu (ppm) là cần thiết để hạn chế tình trạng nóng lên toàn cầu ở mức 2 độ C so với mức trước thời kỳ công nghiệp và ngăn ngừa một số hậu quả thảm khốc nhất của biến đổi khí hậu. Các phép đo được thực hiện tại Đài quan sát Mauna Loa ở Hawaii cho thấy nồng độ CO2 hiện ở mức khoảng 423 ppm.

Yaghi, cũng là nhà khoa học trưởng tại Viện Vật liệu Kỹ thuật số thuộc Trường đại học Berkeley, cho biết: “Bạn phải lấy CO2 từ không khí – không có cách nào khác hay hơn. Ngay cả khi chúng ta ngừng thải CO2, chúng ta vẫn cần phải lấy nó ra khỏi không khí. Chúng ta không có lựa chọn nào khác”.

Klaus Lackner, giám đốc sáng lập Trung tâm Triệt tiêu Phát thải Carbon tại Đại học Bang Arizona, đồng ý rằng việc thu giữ không khí trực tiếp sẽ trở thành một công cụ quan trọng để cô lập carbon và làm mát hành tinh sau khi vượt qua được những rào cản quan trọng. Ông cho biết những tiến bộ trong nghiên cứu mới có thể giúp ích.

Lackner, người không tham gia vào nghiên cứu, cho biết: “Chúng ta đang mở ra cánh cửa dẫn đến một loạt các phương pháp tiếp cận mới”.

Theo trưởng nhóm nghiên cứu Zihui Zhou, một nhà hóa học vật liệu đang theo học tiến sĩ tại Trường đại học Berkeley, khi quan sát dưới kính hiển vi điện, hạt bột trông giống như những quả bóng rổ nhỏ có hàng tỉ lỗ.

Các cấu trúc được giữ lại với nhau bằng một số liên kết hóa học mạnh nhất trong tự nhiên, gồm cả những liên kết biến nguyên tử carbon thành kim cương. Các hợp chất được gọi là amin được gắn vào giữa các liên kết.

Khi không khí chảy qua các cấu trúc, hầu hết các thành phần của nó đều đi qua mà không bị xáo trộn. Nhưng các amin vốn có tính bazơ, đã hút phân tử carbon dioxide vốn có tính axit.

Các phân tử CO2 đó sẽ ở nguyên vị trí cho đến khi các nhà khoa học làm chúng tơi ra bằng cách sử dụng nhiệt. Sau đó, họ có thể hút chúng lại rồi bơm chúng xuống sâu dưới lòng đất để khỏi thoát ra khí quyển

Sau khi loại bỏ carbon dioxide khỏi bột, toàn bộ quá trình có thể bắt đầu lại. Để kiểm tra khả năng làm sạch carbon của COF-999, các nhà nghiên cứu đã đóng gói bột vào một ống thép không gỉ có kích thước bằng một ống hút và tiếp xúc với không khí ngoài trời trong 20 ngày liên tục.

Zhou cho biết khi đi vào ống, không khí Berkeley chứa CO2 ở nồng độ từ 410 ppm đến 517 ppm. Khi nó thoát ra ở phía bên kia, các nhà khoa học không thể phát hiện ra bất kỳ carbon dioxide nào.

Theo những người sáng tạo ra COF-999, loại bột này có một số ưu điểm so với các vật liệu khác. Cấu tạo xốp của nó làm tăng diện tích bề mặt tiếp xúc, nghĩa là có nhiều nơi hơn để giữ các phân tử CO2. Do đó, COF-999 thu giữ carbon dioxide ở tốc độ “nhanh hơn ít nhất 10 lần” so với các vật liệu khác được sử dụng để thu giữ không khí trực tiếp.

Một điểm cộng nữa là COF-999 sẽ nới lỏng việc giữ CO2 khi nó được đun nóng đến khoảng 60 độ C. Zhou cho biết các vật liệu tương đương phải được đun nóng đến 120 độ C để chiết xuất carbon nên rất tốn năng lượng, mà tốn năng lượng thì lại dễ thải khí nhà kính hơn để tạo ra năng lượng.

Loại bột này cũng bền hơn. Zhou cho biết nhóm đã thử nghiệm một phiên bản mới hơn có thể hoạt động trong 300 chu kỳ trước khi thí nghiệm kết thúc.

Lackner cho biết đó là một dấu hiệu đáng mừng. Ông nói: “Việc thực hiện 100 chu kỳ và không thấy bất kỳ sự suy giảm nào cho thấy ta có thể thực hiện hàng nghìn chu kỳ. Chúng tôi còn không biết liệu ta có thể thực hiện hàng trăm nghìn chu kỳ hay không”.

Các thành viên trong nhóm đã tiếp tục cải tiến và họ đang trên đà tăng gấp đôi công suất của nó trong năm tới. Zhou cho biết để triển khai nó trên quy mô công nghiệp sẽ cần phải thiết kế một loại hộp kim loại lớn mà không khí có thể đi qua nhưng không thổi bay hết bột. Những hộp đó sẽ cần được nhóm lại với nhau theo số lượng giống như kiểu một nhà máy Hóa Chất hoặc dầu mỏ hiện đại.

Yaghi cho biết một phiên bản COF-999 có thể sẵn sàng cho các nhà máy thu không khí trực tiếp trong vòng hai năm. Ông không thể ước tính chi phí nếu sản xuất số lượng lớn, nhưng ông tiết lộ việc này không yêu cầu bất kỳ vật liệu đắt tiền hoặc kỳ lạ nào.

Yaghi đã thành lập một công ty, Atoco có trụ sở tại Irvine, để thương mại hóa nghiên cứu về thu giữ carbon và các Công Nghệ khác của mình. Atoco đã giúp tài trợ cho nghiên cứu mới. Ngoài ra, Trường đại học Berkeley đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho COF-999, trong đó nêu tên Yaghi và Zhou là những người phát minh.

Lackner cho biết toàn bộ quy trình thu giữ không khí trực tiếp sẽ phải trở nên “rẻ hơn 10 lần so với hiện tại”. Chỉ khi đó thì Công Nghệ này mới có thể tạo ra tác động thực sự đến hàng trăm tỉ tấn carbon dioxide mà các nhà khoa học muốn loại bỏ khỏi khí quyển.

Một vật liệu hiệu quả hơn trong việc thu thập CO2 sẽ hữu ích, nhưng Lackner cho biết ông dành nhiều thời gian hơn để lo lắng về các vấn đề như tốn bao nhiêu năng lượng để đưa carbon vào lòng đất vì chính việc tiêu thụ năng lượng đó cũng làm Trái đất nóng lên. Ông cho biết “Có hàng ngàn thứ tác động đến điều này”.

Chiếc bồn cầu chuyển phân thành năng lượng và tiền mã hóa

Cho Jae-weon đứng bên cạnh một bể chứa phân ở Ulsan.

Bồn cầu thân thiện với môi trường BeeVi, phát minh đến từ một trường đại học ở Hàn Quốc, phần nào giúp đời sống sinh viên theo học dễ dàng hơn.

Cho Jae-weon, giảng viên khoa Kỹ thuật môi trường thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Quốc gia Ulsan (UNIST), là người sáng tạo ra BeeVi, chiếc bồn cầu có thể biến phân thành khí sinh học và phân bón.

Để tiết kiệm nước, BeeVi sẽ hút phân xuống một bồn chứa đặt ngầm dưới đất. Tại đây, các vi sinh vật sẽ phân hủy chất thải, tạo thành khí mê tan. Khí sau đó được chuyển hóa thành năng lượng cung cấp cho 1 tòa nhà trong trường.

Cho Jae-weon đứng bên cạnh một bể chứa phân ở Ulsan.
Cho Jae-weon đứng bên cạnh một bể chứa phân ở Ulsan. (Ảnh: Reuters).

Nhờ phát minh này, sinh viên tại tòa nhà được sử dụng điện miễn phí. Bên cạnh đó, mỗi lần sử dụng BeeVi được quy đổi ra một đơn vị tiền mã hóa lưu hành nội bộ mang tên “Ggool”, nghĩa là “Mật ong”.

Sinh viên có thể dùng Ggool để mua nhiều thứ trong khuôn viên trường như cà phê, mì ramyeon hay thậm chí là sách. Mỗi người sử dụng BeeVi sẽ kiếm được 10 Ggool một ngày.

“Nếu nghĩ rộng ra, phân có giá trị trong việc tạo ra năng lượng và phân bón. Việc tôi làm là đặt giá trị đó vào vòng tuần hoàn”, ông Cho cho biết.

500 gram phân, lượng trung bình một người thải ra trong một ngày, có thể sản sinh ra 50 lít khí mê tan. Theo ông Cho, lượng khí này giúp tạo ra khoảng 0,5 kWh điện, đủ cho một chiếc xe hơi điện chạy 1,2 km.

Khi tất cả bồn cầu trong khuôn viên trường đều được thay bằng BeeVi, lượng điện năng sạch thu được là rất lớn.

“Tôi không còn xem phân là một thay dơ bẩn nữa, bây giờ nó là một báu vật đối với tôi. Tôi thậm chí còn nói về phân trong các bữa ăn khi nghĩ về những cuốn sách mình muốn”, Heo Hui-jin, cựu sinh viên UNIST cho biết.

Bồn cầu Beevi

Vài năm trước, Cho đã giới thiệu một nghiên cứu miêu tả cách ông sử dụng phân hữu cơ và nhiên liệu được tạo ra bởi phiên bản cũ của BeeVi để trồng và nấu mầm lúa mạch.

Trước BeeVi cũng có một số loại bồn cầu không dùng nước và thân thiện với môi trường được phát triển. Nổi bật nhất có lẽ là Tiger Toilet. Nó trông giống như mọi nhà vệ sinh khác nhưng được vận hành bởi một quần thể giun hổ ở phía dưới.

Tiger Toilet không cần xả nước như thông thường và cũng không kết nối với hệ thống thoát nước. Những con giun được cho vào một thùng chứa đặt bên dưới và chúng sẽ ăn chất thải. Hoạt động của những con vật này sẽ tạo ra hỗn hợp gồm nước, carbon dioxide và một lượng nhỏ phân giun (ít độc và giàu dinh dưỡng hơn phân người).

Sản phẩm phụ còn sót lại của quá trình trên có thể tạo ra loại phân bón tuyệt vời gồm nitơ, phốt pho, carbon và kali, rất tốt cho việc trồng trọt. Ngoài ra, Tiger Toilet cũng không thu hút ruồi muỗi hay các loại côn trùng có hại khác.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Dùng điện từ não để lướt web, bay khắp thế giới chỉ trong 4 giờ… là những ý tưởng khoa học – Công Nghệ độc đáo hứa hẹn trở thành hiện thực trong tương lai.

Công nghệ khoa học luôn không ngừng phát triển với mục tiêu giúp hoạt động của con người trở nên dễ dàng, nhanh chóng hơn. Hàng loạt các ý tưởng phát minh ra đời, hứa hẹn đem đến cho chúng ta nhiều điều tuyệt vời nhất mà chúng ta có thể sẽ thấy vào năm 2020.

Dưới đây là một vài phát minh đáng kinh ngạc nhất mà hẳn bạn sẽ hoàn toàn ngỡ ngàng trước sự kỳ diệu của nó.

Cơ quan không gian vũ trụ Reaction Engines của Anh đang nghiên cứu chiếc máy bay có thể chở 300 hành khách bay khắp nơi trên thế giới chỉ trong 4 giờ. Chiếc máy bay này cũng sẽ có thể bay vào không gian.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Kỹ sư trưởng Alan Bond giải thích rằng, không khí khi vào trong hệ thống động cơ mới có tên Sabre sẽ được làm lạnh ở nhiệt độ hơn 1.000 độ C chỉ trong vòng 0.01 giây, tương đương với tỉ lệ làm lạnh 400 megawatt.

Điều này có nghĩa rằng hệ thống động cơ sẽ có khả năng hoạt động với công suất lớn hơn nhiều so với các loại động cơ hiện tại. Theo Reaction Engines, động cơ Sarbe sẽ được sử dụng với hai mô hình máy bay sắp tới là LAPCAT A2 – một loại máy bay thương mại có khả năng chuyên chở hành khách từ Brussel đến Sydney chỉ trong 2 tiếng đồng hồ và SKYLON – máy bay không người lái có thể tái sử dụng với mục đích tiết kiệm chi phí bay vào không gian.

Cơ quan quản lý và tài trợ nghiên cứu khoa học DARPA đã đưa ra phát minh về cánh tay điện tử – trợ thủ đắc lực cho các cựu chiến binh bị mất tay.

Cánh tay nhân tạo này cử động giống như thật và sẽ có thể làm được bất cứ thứ gì, ví dụ như chơi piano, cầm một chiếc ly, hay giúp người sử dụng uống cafe.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Nhờ vào các phần tử cảm biến truyền tín hiệu đến não, người đeo cánh tay giả này có thể hoạt hóa từng ngón tay đơn lẻ, điều khiển cánh tay nhờ vào hàng loạt những cảm xúc khác nhau, cảm nhận được bất cứ thứ gì khi họ cầm và nắm.

Có nhiều phương pháp để điều khiển cánh tay nhân tạo này. Một vài bệnh nhân trải qua quá trình phẫu thuật cấy các cảm biến vào vai, cơ ngực, và phần còn lại của cánh tay để điều khiển cánh tay.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Một số khác không sử dụng phương pháp phẫu thuật, họ vẫn có thể cầm được những thứ có kích cỡ nhỏ như chiếc nút nhấn. Các nhà thiết kế hy vọng, cánh tay sẽ có lớp da y hệt da thật, thậm chí là có cả vết vân tay và chống thấm nước.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Không còn cần internet, smartphone… bởi trong tương lai gần, một sự thay đổi lớn sẽ diễn ra trong cách chúng ta tương tác với môi trường xung quanh. Theo đó, bạn sẽ có thể nhìn vào một tòa nhà hoặc một địa điểm và nhận các thông tin về chúng chỉ bằng việc sử dụng đôi mắt của mình.

Các nhà nghiên cứu Úc mới đây đã chế tạo ra một “chiếc máy in” sinh học 3D có thể được dùng để tạo ra cơ quan hỗ trợ nhằm thay thế kịp thời một cơ quan trong cơ thể lúc phẫu thuật.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Thiết bị này có khả năng nuôi dưỡng các mạch máu và mặc dù đang trong giai đoạn kiểm tra nhưng những nhà sáng chế nói rằng, những mạch máu được “in” ra từ thiết bị này có thể được dùng trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành trong ít nhất 5 năm tới, trong khi đó, những cơ quan phức tạp hơn như tim, gan, hay xương có thể là 10 năm.

Thế kỷ XXI chứng kiến sự phát triển vượt bậc trong khoa học nghiên cứu và chế tạo người máy. Mặc dù chúng ta chưa sử dụng robot trong nhà hay xây dựng các công trình, nhưng ngành khoa học này đã có nhiều bước tiến dài.

Mới đây, các chuyên gia thuộc ĐH California, San Diego đã tạo ta một robot có tên Eistein giống người đến mức siêu đẳng. Nó có thể cười và có những biểu cảm y hệt người thật.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Hay như công ty Boston Dynamics đã tạo ra một con robot có 2 chân tên Petnam có thể giữ cân bằng các bước di chuyển và nhanh nhẹn như người thật.

Chú robot hình người này được tạo ra nhằm kiểm tra các bộ quần áo bảo hộ chống Hóa Chất. Petman sẽ mô phỏng tình trạng sinh lý học của con người trong bộ quần áo bảo hộ này bằng việc điều khiển nhiệt độ, độ ẩm và lượng tiết mồ hôi, tất cả nhằm cung cấp những điều kiện kiểm tra thực tế nhất.

Các nhà nghiên cứu về Công Nghệ Nano đang nghiên cứu những bộ quần áo giúp người mặc thấy thoải mái hơn. Theo Giáo sư Ashwini Agarwal của Viện Công nghệ Ấn Độ Delhi: “Sợi vải và tơ là những chất liệu có cấu trúc một chiều. Nhờ vào Công Nghệ Nano, chúng ta có thể tiết kiệm chi phí và tăng độ bền của chúng.

Ngoài việc tạo ra sợi nano đa hợp, Công Nghệ này còn có tác dụng trong việc thay đổi màu sắc bề mặt vải cũng như giúp bộ quần áo đẹp hơn. Nhờ đó, những sản phẩm dệt may trở nên bắt mắt và thu hút khách hàng hơn”.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Sợi nano cũng đang được sử dụng để tạo ra năng lượng nhờ vào sự cử động của cơ thể. Một bộ quần áo “năng lượng” sẽ có khả năng phát điện đến các thiết bị điện tử nhỏ. Điều này rất giúp ích cho các binh lính, nhà leo núi hay người tham gia các hoạt động thể chất khác.

Bằng việc áp dụng Công Nghệ nano để chế tạo các con chip nhỏ gọn, tiêu thụ ít năng lượng, các chuyên gia hi vọng sẽ có thể tạo ra hệ thống máy tính hoạt động hiệu quả mà siêu “nhỏ”.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Những nhà nghiên cứu của Intel cũng dự đoán rằng, trước năm 2020, bạn sẽ không cần bàn phím hay chuột để điều khiển máy tính nữa. Thay vào đó, người dùng sẽ sử dụng tín hiệu điện từ của não để mở tài liệu hay lướt web.

Dubai đang xây dựng một tòa nhà với những ứng dụng cực kỳ đẹp mắt và thiết thực. Tòa nhà sẽ có 59 tầng có thể xoay một cách độc lập để những người sống ở đây có thể liên tục được đổi vị trí ngắm cảnh bên ngoài. Các tầng sẽ xoay khoảng 6m/phút và sẽ không ai nhận ra được sự di chuyển này.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Tòa nhà cũng sẽ được thay đổi diện mạo bên ngoài thành những thiết kế phức tạp khi tất cả các tầng cùng xoay. Tua-bin gió được đặt giữa mỗi tầng sẽ giúp tạo ra năng lượng cung cấp cho tòa nhà và thậm chí là những tòa nhà lân cận trong khu vực.

Các nhà sáng lập mới đây đưa ra ý tưởng về chương trình trải nghiệm Scanner Cinema – cho phép mọi người xem một bộ phim theo những cách khác nhau. Người xem được đeo một bộ ống nghe cảm biến sinh học có thể đọc được tín hiệu điện từ của não.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Bộ ống nghe này sau đó sẽ chỉnh sửa những hình ảnh mà một người xem được tùy theo tiềm thức của họ. Bằng cách này, các đoạn kể chuyện có thể được hình thành và điều khiển bởi mức độ tập trung của người xem.

Trưởng dự án cho biết: “Khán giả có thể diễn đạt cảm xúc của họ vào bộ phim họ đang xem. Mục đích của dự án nhằm giúp mọi người có thể nhìn thấy và nghe được giấc mơ của họ. Trong 10 – 15 năm tới, nghiên cứu này có thể giúp chúng ta có thể ghi lại toàn bộ giấc mơ của mình”.