Lưu trữ Danh mục: Khoa Học Và Công Nghệ

Phát minh ra loại bột có thể hấp thụ khí CO2 hiệu quả hơn cây xanh

Cấu tạo phân tử COF-999.

Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature vào 23/10, có một loại bột có thể giúp hút khí carbon dioxide còn hiệu quả hơn cả trồng cây.

Một cây thông thường trong quá trình phát triển, có thể hút tới 40kg carbon dioxide ra khỏi không khí trong suốt một năm. Giờ đây, các nhà khoa học tại Trường đại học Berkeley cho biết họ có thể làm công việc tương tự với khoảng 200 gram bột màu vàng mịn.

Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature vào 23/10, các hạt bột đó những lỗ cực nhỏ có thể giữ khí nhà kính trong đó. Sau đó, họ sẽ thu khí nhà kính từ trong bột đó rồi đêm trữ ở một nơi nào đó để khí không thể góp phần vào hiện tượng nóng lên toàn cầu. Trong các cuộc thử nghiệm, vật liệu vẫn ở có hiệu suất tốt sau 100 chu kỳ như vậy,.

Omar Yaghi, một nhà hóa học lưới tại Trường đại học Berkeley và là tác giả chính của nghiên cứu cho biết Nó hoạt động rất tốt: “Dựa trên độ ổn định và hoạt tính của vật liệu hiện tại, chúng tôi nghĩ rằng nó sẽ hoạt động trong hàng nghìn chu kỳ”.

Cấu tạo phân tử COF-999.
Cấu tạo phân tử COF-999.

Được gọi là COF-999, bột này có thể được triển khai trong các loại nhà máy thu khí trực tiếp quy mô lớn đang bắt đầu hoạt động để giảm lượng carbon trong khí quyển.

Các nhà khoa học cho biết, việc duy trì nồng độ carbon dioxide trong khí quyển dưới 450 phần triệu (ppm) là cần thiết để hạn chế tình trạng nóng lên toàn cầu ở mức 2 độ C so với mức trước thời kỳ công nghiệp và ngăn ngừa một số hậu quả thảm khốc nhất của biến đổi khí hậu. Các phép đo được thực hiện tại Đài quan sát Mauna Loa ở Hawaii cho thấy nồng độ CO2 hiện ở mức khoảng 423 ppm.

Yaghi, cũng là nhà khoa học trưởng tại Viện Vật liệu Kỹ thuật số thuộc Trường đại học Berkeley, cho biết: “Bạn phải lấy CO2 từ không khí – không có cách nào khác hay hơn. Ngay cả khi chúng ta ngừng thải CO2, chúng ta vẫn cần phải lấy nó ra khỏi không khí. Chúng ta không có lựa chọn nào khác”.

Klaus Lackner, giám đốc sáng lập Trung tâm Triệt tiêu Phát thải Carbon tại Đại học Bang Arizona, đồng ý rằng việc thu giữ không khí trực tiếp sẽ trở thành một công cụ quan trọng để cô lập carbon và làm mát hành tinh sau khi vượt qua được những rào cản quan trọng. Ông cho biết những tiến bộ trong nghiên cứu mới có thể giúp ích.

Lackner, người không tham gia vào nghiên cứu, cho biết: “Chúng ta đang mở ra cánh cửa dẫn đến một loạt các phương pháp tiếp cận mới”.

Theo trưởng nhóm nghiên cứu Zihui Zhou, một nhà hóa học vật liệu đang theo học tiến sĩ tại Trường đại học Berkeley, khi quan sát dưới kính hiển vi điện, hạt bột trông giống như những quả bóng rổ nhỏ có hàng tỉ lỗ.

Các cấu trúc được giữ lại với nhau bằng một số liên kết hóa học mạnh nhất trong tự nhiên, gồm cả những liên kết biến nguyên tử carbon thành kim cương. Các hợp chất được gọi là amin được gắn vào giữa các liên kết.

Khi không khí chảy qua các cấu trúc, hầu hết các thành phần của nó đều đi qua mà không bị xáo trộn. Nhưng các amin vốn có tính bazơ, đã hút phân tử carbon dioxide vốn có tính axit.

Các phân tử CO2 đó sẽ ở nguyên vị trí cho đến khi các nhà khoa học làm chúng tơi ra bằng cách sử dụng nhiệt. Sau đó, họ có thể hút chúng lại rồi bơm chúng xuống sâu dưới lòng đất để khỏi thoát ra khí quyển

Sau khi loại bỏ carbon dioxide khỏi bột, toàn bộ quá trình có thể bắt đầu lại. Để kiểm tra khả năng làm sạch carbon của COF-999, các nhà nghiên cứu đã đóng gói bột vào một ống thép không gỉ có kích thước bằng một ống hút và tiếp xúc với không khí ngoài trời trong 20 ngày liên tục.

Zhou cho biết khi đi vào ống, không khí Berkeley chứa CO2 ở nồng độ từ 410 ppm đến 517 ppm. Khi nó thoát ra ở phía bên kia, các nhà khoa học không thể phát hiện ra bất kỳ carbon dioxide nào.

Theo những người sáng tạo ra COF-999, loại bột này có một số ưu điểm so với các vật liệu khác. Cấu tạo xốp của nó làm tăng diện tích bề mặt tiếp xúc, nghĩa là có nhiều nơi hơn để giữ các phân tử CO2. Do đó, COF-999 thu giữ carbon dioxide ở tốc độ “nhanh hơn ít nhất 10 lần” so với các vật liệu khác được sử dụng để thu giữ không khí trực tiếp.

Một điểm cộng nữa là COF-999 sẽ nới lỏng việc giữ CO2 khi nó được đun nóng đến khoảng 60 độ C. Zhou cho biết các vật liệu tương đương phải được đun nóng đến 120 độ C để chiết xuất carbon nên rất tốn năng lượng, mà tốn năng lượng thì lại dễ thải khí nhà kính hơn để tạo ra năng lượng.

Loại bột này cũng bền hơn. Zhou cho biết nhóm đã thử nghiệm một phiên bản mới hơn có thể hoạt động trong 300 chu kỳ trước khi thí nghiệm kết thúc.

Lackner cho biết đó là một dấu hiệu đáng mừng. Ông nói: “Việc thực hiện 100 chu kỳ và không thấy bất kỳ sự suy giảm nào cho thấy ta có thể thực hiện hàng nghìn chu kỳ. Chúng tôi còn không biết liệu ta có thể thực hiện hàng trăm nghìn chu kỳ hay không”.

Các thành viên trong nhóm đã tiếp tục cải tiến và họ đang trên đà tăng gấp đôi công suất của nó trong năm tới. Zhou cho biết để triển khai nó trên quy mô công nghiệp sẽ cần phải thiết kế một loại hộp kim loại lớn mà không khí có thể đi qua nhưng không thổi bay hết bột. Những hộp đó sẽ cần được nhóm lại với nhau theo số lượng giống như kiểu một nhà máy Hóa Chất hoặc dầu mỏ hiện đại.

Yaghi cho biết một phiên bản COF-999 có thể sẵn sàng cho các nhà máy thu không khí trực tiếp trong vòng hai năm. Ông không thể ước tính chi phí nếu sản xuất số lượng lớn, nhưng ông tiết lộ việc này không yêu cầu bất kỳ vật liệu đắt tiền hoặc kỳ lạ nào.

Yaghi đã thành lập một công ty, Atoco có trụ sở tại Irvine, để thương mại hóa nghiên cứu về thu giữ carbon và các Công Nghệ khác của mình. Atoco đã giúp tài trợ cho nghiên cứu mới. Ngoài ra, Trường đại học Berkeley đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho COF-999, trong đó nêu tên Yaghi và Zhou là những người phát minh.

Lackner cho biết toàn bộ quy trình thu giữ không khí trực tiếp sẽ phải trở nên “rẻ hơn 10 lần so với hiện tại”. Chỉ khi đó thì Công Nghệ này mới có thể tạo ra tác động thực sự đến hàng trăm tỉ tấn carbon dioxide mà các nhà khoa học muốn loại bỏ khỏi khí quyển.

Một vật liệu hiệu quả hơn trong việc thu thập CO2 sẽ hữu ích, nhưng Lackner cho biết ông dành nhiều thời gian hơn để lo lắng về các vấn đề như tốn bao nhiêu năng lượng để đưa carbon vào lòng đất vì chính việc tiêu thụ năng lượng đó cũng làm Trái đất nóng lên. Ông cho biết “Có hàng ngàn thứ tác động đến điều này”.

Chiếc bồn cầu chuyển phân thành năng lượng và tiền mã hóa

Cho Jae-weon đứng bên cạnh một bể chứa phân ở Ulsan.

Bồn cầu thân thiện với môi trường BeeVi, phát minh đến từ một trường đại học ở Hàn Quốc, phần nào giúp đời sống sinh viên theo học dễ dàng hơn.

Cho Jae-weon, giảng viên khoa Kỹ thuật môi trường thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Quốc gia Ulsan (UNIST), là người sáng tạo ra BeeVi, chiếc bồn cầu có thể biến phân thành khí sinh học và phân bón.

Để tiết kiệm nước, BeeVi sẽ hút phân xuống một bồn chứa đặt ngầm dưới đất. Tại đây, các vi sinh vật sẽ phân hủy chất thải, tạo thành khí mê tan. Khí sau đó được chuyển hóa thành năng lượng cung cấp cho 1 tòa nhà trong trường.

Cho Jae-weon đứng bên cạnh một bể chứa phân ở Ulsan.
Cho Jae-weon đứng bên cạnh một bể chứa phân ở Ulsan. (Ảnh: Reuters).

Nhờ phát minh này, sinh viên tại tòa nhà được sử dụng điện miễn phí. Bên cạnh đó, mỗi lần sử dụng BeeVi được quy đổi ra một đơn vị tiền mã hóa lưu hành nội bộ mang tên “Ggool”, nghĩa là “Mật ong”.

Sinh viên có thể dùng Ggool để mua nhiều thứ trong khuôn viên trường như cà phê, mì ramyeon hay thậm chí là sách. Mỗi người sử dụng BeeVi sẽ kiếm được 10 Ggool một ngày.

“Nếu nghĩ rộng ra, phân có giá trị trong việc tạo ra năng lượng và phân bón. Việc tôi làm là đặt giá trị đó vào vòng tuần hoàn”, ông Cho cho biết.

500 gram phân, lượng trung bình một người thải ra trong một ngày, có thể sản sinh ra 50 lít khí mê tan. Theo ông Cho, lượng khí này giúp tạo ra khoảng 0,5 kWh điện, đủ cho một chiếc xe hơi điện chạy 1,2 km.

Khi tất cả bồn cầu trong khuôn viên trường đều được thay bằng BeeVi, lượng điện năng sạch thu được là rất lớn.

“Tôi không còn xem phân là một thay dơ bẩn nữa, bây giờ nó là một báu vật đối với tôi. Tôi thậm chí còn nói về phân trong các bữa ăn khi nghĩ về những cuốn sách mình muốn”, Heo Hui-jin, cựu sinh viên UNIST cho biết.

Bồn cầu Beevi

Vài năm trước, Cho đã giới thiệu một nghiên cứu miêu tả cách ông sử dụng phân hữu cơ và nhiên liệu được tạo ra bởi phiên bản cũ của BeeVi để trồng và nấu mầm lúa mạch.

Trước BeeVi cũng có một số loại bồn cầu không dùng nước và thân thiện với môi trường được phát triển. Nổi bật nhất có lẽ là Tiger Toilet. Nó trông giống như mọi nhà vệ sinh khác nhưng được vận hành bởi một quần thể giun hổ ở phía dưới.

Tiger Toilet không cần xả nước như thông thường và cũng không kết nối với hệ thống thoát nước. Những con giun được cho vào một thùng chứa đặt bên dưới và chúng sẽ ăn chất thải. Hoạt động của những con vật này sẽ tạo ra hỗn hợp gồm nước, carbon dioxide và một lượng nhỏ phân giun (ít độc và giàu dinh dưỡng hơn phân người).

Sản phẩm phụ còn sót lại của quá trình trên có thể tạo ra loại phân bón tuyệt vời gồm nitơ, phốt pho, carbon và kali, rất tốt cho việc trồng trọt. Ngoài ra, Tiger Toilet cũng không thu hút ruồi muỗi hay các loại côn trùng có hại khác.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Dùng điện từ não để lướt web, bay khắp thế giới chỉ trong 4 giờ… là những ý tưởng khoa học – Công Nghệ độc đáo hứa hẹn trở thành hiện thực trong tương lai.

Công nghệ khoa học luôn không ngừng phát triển với mục tiêu giúp hoạt động của con người trở nên dễ dàng, nhanh chóng hơn. Hàng loạt các ý tưởng phát minh ra đời, hứa hẹn đem đến cho chúng ta nhiều điều tuyệt vời nhất mà chúng ta có thể sẽ thấy vào năm 2020.

Dưới đây là một vài phát minh đáng kinh ngạc nhất mà hẳn bạn sẽ hoàn toàn ngỡ ngàng trước sự kỳ diệu của nó.

Cơ quan không gian vũ trụ Reaction Engines của Anh đang nghiên cứu chiếc máy bay có thể chở 300 hành khách bay khắp nơi trên thế giới chỉ trong 4 giờ. Chiếc máy bay này cũng sẽ có thể bay vào không gian.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Kỹ sư trưởng Alan Bond giải thích rằng, không khí khi vào trong hệ thống động cơ mới có tên Sabre sẽ được làm lạnh ở nhiệt độ hơn 1.000 độ C chỉ trong vòng 0.01 giây, tương đương với tỉ lệ làm lạnh 400 megawatt.

Điều này có nghĩa rằng hệ thống động cơ sẽ có khả năng hoạt động với công suất lớn hơn nhiều so với các loại động cơ hiện tại. Theo Reaction Engines, động cơ Sarbe sẽ được sử dụng với hai mô hình máy bay sắp tới là LAPCAT A2 – một loại máy bay thương mại có khả năng chuyên chở hành khách từ Brussel đến Sydney chỉ trong 2 tiếng đồng hồ và SKYLON – máy bay không người lái có thể tái sử dụng với mục đích tiết kiệm chi phí bay vào không gian.

Cơ quan quản lý và tài trợ nghiên cứu khoa học DARPA đã đưa ra phát minh về cánh tay điện tử – trợ thủ đắc lực cho các cựu chiến binh bị mất tay.

Cánh tay nhân tạo này cử động giống như thật và sẽ có thể làm được bất cứ thứ gì, ví dụ như chơi piano, cầm một chiếc ly, hay giúp người sử dụng uống cafe.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Nhờ vào các phần tử cảm biến truyền tín hiệu đến não, người đeo cánh tay giả này có thể hoạt hóa từng ngón tay đơn lẻ, điều khiển cánh tay nhờ vào hàng loạt những cảm xúc khác nhau, cảm nhận được bất cứ thứ gì khi họ cầm và nắm.

Có nhiều phương pháp để điều khiển cánh tay nhân tạo này. Một vài bệnh nhân trải qua quá trình phẫu thuật cấy các cảm biến vào vai, cơ ngực, và phần còn lại của cánh tay để điều khiển cánh tay.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Một số khác không sử dụng phương pháp phẫu thuật, họ vẫn có thể cầm được những thứ có kích cỡ nhỏ như chiếc nút nhấn. Các nhà thiết kế hy vọng, cánh tay sẽ có lớp da y hệt da thật, thậm chí là có cả vết vân tay và chống thấm nước.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Không còn cần internet, smartphone… bởi trong tương lai gần, một sự thay đổi lớn sẽ diễn ra trong cách chúng ta tương tác với môi trường xung quanh. Theo đó, bạn sẽ có thể nhìn vào một tòa nhà hoặc một địa điểm và nhận các thông tin về chúng chỉ bằng việc sử dụng đôi mắt của mình.

Các nhà nghiên cứu Úc mới đây đã chế tạo ra một “chiếc máy in” sinh học 3D có thể được dùng để tạo ra cơ quan hỗ trợ nhằm thay thế kịp thời một cơ quan trong cơ thể lúc phẫu thuật.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Thiết bị này có khả năng nuôi dưỡng các mạch máu và mặc dù đang trong giai đoạn kiểm tra nhưng những nhà sáng chế nói rằng, những mạch máu được “in” ra từ thiết bị này có thể được dùng trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành trong ít nhất 5 năm tới, trong khi đó, những cơ quan phức tạp hơn như tim, gan, hay xương có thể là 10 năm.

Thế kỷ XXI chứng kiến sự phát triển vượt bậc trong khoa học nghiên cứu và chế tạo người máy. Mặc dù chúng ta chưa sử dụng robot trong nhà hay xây dựng các công trình, nhưng ngành khoa học này đã có nhiều bước tiến dài.

Mới đây, các chuyên gia thuộc ĐH California, San Diego đã tạo ta một robot có tên Eistein giống người đến mức siêu đẳng. Nó có thể cười và có những biểu cảm y hệt người thật.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Hay như công ty Boston Dynamics đã tạo ra một con robot có 2 chân tên Petnam có thể giữ cân bằng các bước di chuyển và nhanh nhẹn như người thật.

Chú robot hình người này được tạo ra nhằm kiểm tra các bộ quần áo bảo hộ chống Hóa Chất. Petman sẽ mô phỏng tình trạng sinh lý học của con người trong bộ quần áo bảo hộ này bằng việc điều khiển nhiệt độ, độ ẩm và lượng tiết mồ hôi, tất cả nhằm cung cấp những điều kiện kiểm tra thực tế nhất.

Các nhà nghiên cứu về Công Nghệ Nano đang nghiên cứu những bộ quần áo giúp người mặc thấy thoải mái hơn. Theo Giáo sư Ashwini Agarwal của Viện Công nghệ Ấn Độ Delhi: “Sợi vải và tơ là những chất liệu có cấu trúc một chiều. Nhờ vào Công Nghệ Nano, chúng ta có thể tiết kiệm chi phí và tăng độ bền của chúng.

Ngoài việc tạo ra sợi nano đa hợp, Công Nghệ này còn có tác dụng trong việc thay đổi màu sắc bề mặt vải cũng như giúp bộ quần áo đẹp hơn. Nhờ đó, những sản phẩm dệt may trở nên bắt mắt và thu hút khách hàng hơn”.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Sợi nano cũng đang được sử dụng để tạo ra năng lượng nhờ vào sự cử động của cơ thể. Một bộ quần áo “năng lượng” sẽ có khả năng phát điện đến các thiết bị điện tử nhỏ. Điều này rất giúp ích cho các binh lính, nhà leo núi hay người tham gia các hoạt động thể chất khác.

Bằng việc áp dụng Công Nghệ nano để chế tạo các con chip nhỏ gọn, tiêu thụ ít năng lượng, các chuyên gia hi vọng sẽ có thể tạo ra hệ thống máy tính hoạt động hiệu quả mà siêu “nhỏ”.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Những nhà nghiên cứu của Intel cũng dự đoán rằng, trước năm 2020, bạn sẽ không cần bàn phím hay chuột để điều khiển máy tính nữa. Thay vào đó, người dùng sẽ sử dụng tín hiệu điện từ của não để mở tài liệu hay lướt web.

Dubai đang xây dựng một tòa nhà với những ứng dụng cực kỳ đẹp mắt và thiết thực. Tòa nhà sẽ có 59 tầng có thể xoay một cách độc lập để những người sống ở đây có thể liên tục được đổi vị trí ngắm cảnh bên ngoài. Các tầng sẽ xoay khoảng 6m/phút và sẽ không ai nhận ra được sự di chuyển này.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Tòa nhà cũng sẽ được thay đổi diện mạo bên ngoài thành những thiết kế phức tạp khi tất cả các tầng cùng xoay. Tua-bin gió được đặt giữa mỗi tầng sẽ giúp tạo ra năng lượng cung cấp cho tòa nhà và thậm chí là những tòa nhà lân cận trong khu vực.

Các nhà sáng lập mới đây đưa ra ý tưởng về chương trình trải nghiệm Scanner Cinema – cho phép mọi người xem một bộ phim theo những cách khác nhau. Người xem được đeo một bộ ống nghe cảm biến sinh học có thể đọc được tín hiệu điện từ của não.

Các phát minh khiến thế giới sửng sốt trong 10 năm tới

Bộ ống nghe này sau đó sẽ chỉnh sửa những hình ảnh mà một người xem được tùy theo tiềm thức của họ. Bằng cách này, các đoạn kể chuyện có thể được hình thành và điều khiển bởi mức độ tập trung của người xem.

Trưởng dự án cho biết: “Khán giả có thể diễn đạt cảm xúc của họ vào bộ phim họ đang xem. Mục đích của dự án nhằm giúp mọi người có thể nhìn thấy và nghe được giấc mơ của họ. Trong 10 – 15 năm tới, nghiên cứu này có thể giúp chúng ta có thể ghi lại toàn bộ giấc mơ của mình”.

Van Tesla: Phát minh của vị thiên tài 100 năm về trước bỗng đầy giá trị ở thời điểm hiện tại

Đường dẫn trong van Tesla khá kỳ dị

Trong số những phát minh của thiên tài Nikola Tesla, có rất nhiều thứ đã bị lãng quên hoặc con người chưa thể ứng dụng một cách hợp lý, cơ bản vì Công Nghệ của loài người chưa đáp ứng được cho tầm nhìn mà vị thiên tài đã nghĩ ra hơn một thế kỷ trước.

Nhưng gần đây, một phát minh gần như bị bỏ quên của Nicola Tesla bỗng nhiên có khả năng ứng dụng thực tiễn. Đấy là van điều tiết dẫn vi lưu (macrofluidic), gọi ngắn gọn đơn giản là van Tesla.

Đường dẫn trong van Tesla khá kỳ dị, xen kẽ giữa đường chảy chính của chất lỏng là những kênh vi lưu nhỏ rẽ nhánh nhưng sau đó lại chảy ngược trở lại dòng chính. Những đường chảy phụ được thiết kế với đường cong như giọt nước, sao cho dòng chất lỏng lưu thông trong van chỉ chạy được một chiều, nếu chạy ngược lại sẽ bị chặn hoàn toàn. Nói cách khác, ý tưởng van Tesla được đưa ra để tạo ra một dạng van điều tiết chất lỏng một chiều, với lợi thế rất lớn là không cần dùng máy bơm hoặc những bộ phận di chuyển (ví dụ như cửa khóa van hoặc lò xo, với nguy cơ hao mòn hỏng hóc trong quá trình sử dụng), mà chính dòng dẫn vi lưu sẽ giúp tạo ra dòng chảy một chiều.

Phó giáo sư Leif Ristroph thuộc viện nghiên cứu khoa học toán học thuộc đại học New York nói: “Giờ thế giới nhớ đến Tesla như một phù thủy nếu nói đến phát minh điện xoay chiều của ông, nhưng những khám phá và nghiên cứu kiểm soát dòng chảy chất lỏng của ông cũng đi trước thời đại rất xa”. Loại van được Tesla đăng ký bản quyền vào năm 1920 này kích hoạt khả năng điều tiết dòng chảy một chiều nhờ vào quá trình tạo dòng chảy hỗn loạn và dòng chảy xoáy bên trong ống dẫn, ở tốc độ nhất định sẽ tạo ra khả năng dẫn lưu một chiều, chất lỏng chảy ngược lại sẽ bị chặn ngay.

Phó giáo sư Ristroph cho biết thêm: “Thêm nữa, dòng chảy xoáy được tạo ra ở lưu lượng chất lỏng thấp hơn nhiều so với những dạng ống dẫn với thiết kế cơ bản và quen thuộc, tốc độ dòng trong đường ống do Tesla phát minh ra thấp hơn 20 lần so với ống dẫn tiết diện tròn bình thường cũng đủ tạo ra dòng chảy xoáy, gián tiếp tạo ra hiệu ứng kiểm soát dòng chảy một chiều. Điều này mô tả khả năng kiểm soát dòng chảy phục vụ cho rất nhiều ngành nghề”.

Đường dẫn trong van Tesla khá kỳ dị
Đường dẫn trong van Tesla khá kỳ dị.

Đó là về mặt lý thuyết. Còn về mặt ứng dụng, van Tesla được phát minh hơn 100 năm về trước có vô vàn khả năng ứng dụng thực tiễn. Van Tesla thực tế vận hành tốt nhất trong điều kiện dòng chảy không đều, mà thay vào đó dòng chất lỏng bị ảnh hưởng bởi nhịp rung. “Nó có thể được ứng dụng để tận dụng động năng rung trong động cơ hoặc máy công nghiệp để tiếp nhiên liệu, chất làm mát, chất bôi trơn hoặc những dạng khí gas và chất lỏng khác.” Thậm chí, nó hoàn toàn có tiềm năng ứng dụng trong ngành công nghiệp vũ trụ, nơi những con tàu có độ rung rất lớn, để điều hòa nhịp tiếp nhiên liệu cho động cơ tên lửa đẩy.

Phó giáo sư Ristroph nói: “Thật đáng nể khi thấy một phát minh hơn 1 thế kỷ trước đến giờ vẫn chưa được con người hiểu hoàn toàn, và có tiềm năng ứng dụng theo những cách con người chưa từng nghĩ đến”.

Lịch sử tàu thủy (phần 1)

Lịch sử tàu thủy (phần 1)

Từ cuối thế kỷ 18 trở về trước, các thuyền buồm đều vận chuyển nhờ gió biển trong khi gió lại thổi thất thường. Người ta đã nghĩ tới việc dùng một nguồn năng lực nào không thay đổi và đủ mạnh để thay thế gió.

Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ vào đầu thế kỷ 18 đã mang lại cho ngành Hàng Hải một sản phẩm chế tạo do các nhà phát minh và kỹ thuật, đó là máy hơi nước, một dụng cụ sinh ra động lực. Máy hơi nước đã được áp dụng vào thuật Hàng Hải và tàu thủy ra đời.

Lịch sử tàu thủy (phần 1)
Máy hơi nước của Denis Papin (Ảnh: library)

Vào khoảng năm 1700, Newcomen đã chế ra chiếc máy “không khí” nhưng loại máy này còn quá yếu và nặng nề, không thể áp dụng cho tàu thủy. Cũng vào thời kỳ này, Denis Papin đã tìm cách áp dụng phát minh về máy hơi nước của ông ta vào tàu thủy nhưng chiếc tàu làm mẫu của Papin bị các thủy thủ ganh tị phá vỡ vào năm 1707 và Denis Papin từ bỏ việc chế tạo.

Chiếc máy hơi nước thực sự được James Watt chế ra vào khoảng năm 1770 và tại nước Pháp, nhiều người đã tìm cách áp dụng máy hơi nước vào việc chuyển vận trên mặt nước. Các Bá Tước Auxiron và Follenay đã làm các tàu thủy nhưng các con tàu này đều bị chìm trên giòng sông Seine, có thể do sự phá hoại của các thủy thủ thời đó, vì họ sợ bị thất nghiệp. Tới năm 1783, Bá Tước Jouffroy d’Abbans đã thành công trong việc đóng chiếc tàu thủy Pyroscaphe và cho tàu này chạy trên sông Saone trong 15 phút trước sự chứng kiến của hàng ngàn người quan sát. Bá Tước d’Abbans đã xin trợ giúp của chính phủ nhưng dự án bị Hàn Lâm Viện Pháp bác bỏ vì Viện đang tài trợ các thí nghiệm về khinh khí cầu của Montgolfier. Vì thế công trình nghiên cứu tàu thủy của Bá Tước d’Abbans phải bỏ dở.

Lịch sử tàu thủy (phần 1)
James Watt (Ảnh: greatscotland)

Cuộc nghiên cứu về cách chế tạo tàu thủy bị lãng quên tại nước Pháp thì tại Hoa Kỳ, phần lớn các nhà tiên phong về tàu thủy bắt đầu hoạt động vì quốc gia này gồm rất nhiều sông rộng, lại không có đường lộ và đường sắt. Máy hơi nước vào cuối thế kỷ 18 còn cồng kềnh và chưa hoàn hảo. Chưa ai có kiến thức gì về việc áp dụng động lực vào cách chuyển vận trên mặt nước. Các nhà phát minh chỉ hiểu biết về cách dùng buồm và lái.

Hai người Mỹ đầu tiên được gán cho danh dự đã chế tạo các tàu thủy đầu tiên là James Rumsey và John Fitch. J. Rumsey đã cố gắng lắp một động cơ dùng hơi nước vào một chiếc thuyền vào năm 1786 nhưng chẳng may, Rumsey đã chọn phải một động cơ không thích hợp. Động cơ này hút nước ở trước tàu và nhả ra sau tàu. Sau nhiều lần thử thất bại, Rumsey sang nước Anh và tại nơi này, ông ta chế tạo một tàu thủy khác. Rumsey qua đời bất ngờ khiến cho công cuộc thí nghiệm bị chấm dứt dù cho về sau, trong chuyến chạy thử trên giòng sông Thames, chiếc tàu thủy của ông Rumsey đã chạy được với vận tốc 4 hải lý một giờ.

Sau Rumsey, John Fitch mới đúng là nhà chế tạo tàu thủy đầu tiên. Chính vì cần tới các miền đất Viễn Tây mà Fitch tới Pennsylvania để học hỏi về máy hơi nước. Vào năm 1785, Fitch bắt đầu đóng một kiểu tàu thủy có guồng (paddle wheel) tại bên sườn tàu. Hai năm sau, nhà phát minh này lắp động cơ vào một chiếc thuyền dài 14 mét. Không biết vì sao, Fitch đã đổi ý và lại cho lắp các mái chèo thẳng đứng. Động cơ truyền sức mạnh vào hai bộ máy chèo, mỗi bộ gồm 6 chiếc, tại mỗi cạnh thuyền. Các mái chèo này lần lượt nhấc lên rồi cắm xuống, đẩy nước về phía sau. Mặc dù phương pháp này rất vụng về, lần thử trên sông vẫn mang lại thành công. Vào một buổi chiều tháng 8 năm 1787, con tàu đã vượt được khoảng cách 40 dặm với vận tốc 4 dặm một giờ.

Lịch sử tàu thủy (phần 1)
John Fitch (Ảnh: pbs)

Fitch như vậy đã chiếm được địa vị độc tôn về đóng tàu thủy chạy trong các tiểu bang New Jersey, New York, Pennsylvania, Delaware và Virginia. Vì tin tưởng thành công nên Fitch trù tính đóng một chiếc tàu thủy lớn hơn, dài 18 mét và cũng chạy bằng hơi nước. Vào năm 1788, con tàu này được hạ thủy và cũng thành công trong việc chở 30 hành khách chạy trên hải trình từ Philadelphia tới Burlington. Trong khoảng thời gian này, tiền vốn của Fitch cạn dần trong khi dân chúng lại không quan tâm đến phát minh đó. Fitch cố gắng chế tạo con tàu thứ ba vào năm 1790. Chiếc tàu thủy này có nồi súp de tốt hơn và bộ máy đơn giản hơn, tàu đã di chuyển trên giòng sông Delaware và được các báo chí tại Philadelphia ca tụng. Mặc dù cách đẩy nước vụng về, con tàu này của Fitch đã thành công về cơ khí và đã di chuyển được hơn 2,000 dặm, chở cả hành khách lẫn hàng hóa.

Con tàu dùng mái chèo thẳng đứng của Fitch
Con tàu dùng mái chèo thẳng đứng của Fitch. (Ảnh: uh.edu)

Khi sắc luật về bằng sáng chế được chấp thuận vào năm 1791, Fitch được cấp bằng phát minh về tàu thủy nhưng cũng loại bằng cấp này được cấp cho Rumsey và Stevens trong khi đó Fitch đứng đầu về tài năng. Mặc dù bất mãn và bị túng thiếu, Fitch vẫn tiếp tục nuôi dưỡng giấc mơ về tàu thủy. Tưởng rằng có thể thành công hơn tại nước Pháp, Fitch xuống tàu sang Pháp vào năm 1793. Tại nước Pháp và để chắc chắn, Fitch lại xin bằng phát minh về tàu thủy nhưng rồi vẫn gặp vận sui. Cuộc Cách Mạng Pháp đã cản trở các cuộc thí nghiệm của Fitch. Dù sao, Fitch cũng ảnh hưởng tới sự phát triển về tàu thủy của xứ sở này. Fitch đã để lại các họa đồ vẽ tàu thủy cho viên Lãnh Sự Mỹ tại Paris rồi ông này đã cho một kỹ sư trẻ tuổi kiêm họa sĩ xem. Viên kỹ sư này tên là Robert Fulton. Trong lúc đó, Fitch trở lại Hoa Kỳ với sức khỏe mong manh. Nhà phát minh này đã cố gắng làm cho dân chúng quan tâm về sự chuyển vận của tàu thủy bằng cuộc triển lãm một con tàu nhỏ dùng động cơ hơi nước, nhưng dân chúng vẫn lãnh đạm. Fitch lui về Kentucky, trở nên mất trí rồi qua năm 1798, qua đời vì dùng quá liều thuốc phiện.

Tàu thủy chạy bằng hơi nước đầu tiên của Fitch
Tàu thủy chạy bằng hơi nước đầu tiên của Fitch. (Ảnh: history)

Trong khi các tàu thủy của Fitch xuôi ngược trên giòng sông Delaware, một người đã trông thấy tàu chạy và đã nhìn thấy khả năng vô biên của tàu thủy, người đó là Đại Tá John Stevens. Đầu tiên, do cần có một phương tiện khứ hồi từ nhà tại New York City tới miền đất sở hữu tại Hoboken mà Stevens quyết định đóng lấy một chiếc tàu thủy. Stevens còn nhận ra vài chỗ nhầm lẫn trong phát minh của Fitch, hơn nữa nhờ giàu có, Stevens dễ thực hiện những cải cách cần thiết.

Stevens thuyết phục được người anh rể tên là Robert Livingston cùng bỏ tiền ra đặt một động cơ hơi nước tại xưởng đúc New Jersey rồi lắp động cơ này vào một con thuyền dài 60 feet (gần 20 mét). Lần thử vào năm 1798 gặp thất bại vì tàu đã dùng phương pháp đẩy giống như phương cách của Rumsey. Lần thử thứ hai cũng không thành công dù cho nhà phát minh dùng các mái chèo thẳng đứng đặt tại đuôi tàu, giống như cách thức của Fitch. Rồi bộ máy quá nặng nề đã làm bể vỡ con thuyền mong manh. Không lâu sau đó, Livingston lãnh nhiệm vụ làm Đại Sứ Hoa Kỳ tại nước Pháp còn Stevens tiếp tục thí nghiệm và trở nên viên kỹ sư máy hơi nước tài giỏi nhất Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 19.

Lịch sử tàu thủy (phần 1)
John Stevens. (Ảnh: wikipedia)

Năm 1802, Stevens lắp vào chiếc thuyền dài 8 mét một máy hơi nước nhỏ liên hợp với một chân vịt có 4 cánh. Nhà phát minh đã dùng con tàu này để đi nhiều lần từ New York tới Hoboken. Vài năm sau, Stevens hoàn thành một con tàu thứ hai có hai chân vịt chuyển vận nhờ một động cơ áp suất cao do chính ông ta vẽ kiểu. Và danh vọng tột đỉnh tới với Stevens khi ông ta đóng xong con tàu Phoenix trong 2 năm. Con tàu này dài 31 mét, có động cơ đồ sộ. Stevens trở lại cách đẩy tàu kiểu cũ, tức là dùng các bánh xe guồng (paddle wheels) và làm cho chắc chắn, ông ta lại thêm hai chiếc cột để khi cần tới, có thể kéo buồm lên.

Vì danh tiếng của Fitch, Stevens không dám cho tàu chạy trong tiểu bang New York nên đành phải cho tàu ra khơi. Chiếc Phoenix đã chạy được từ New York tới Philadelphia bình yên. Như vậy Stevens đoạt danh dự là người đầu tiên hoàn thành một cuộc du lịch bằng tàu thủy ra ngoài biển khơi. Nhưng thành tích này không được nhiều người khác quan tâm vì vào thời bấy giờ, dân chúng Hoa Kỳ đang mải chú ý tới các cuộc chạy thử tàu thủy của Robert Fulton trên giòng sông Hudson. Trong những năm tiếp theo, Stevens chuyên về chế tạo các phà chạy bằng máy hơi nước và cũng quan tâm cả về ngành hỏa xa.

Robert Fulton là một họa sĩ, sống vào thời kỳ đầu của máy hơi nước, vì thế Fulton đã từ bỏ nghệ thuật để trở nên một kỹ sư đào kênh. Nhờ trông coi việc đào kênh mà Fulton có ý tưởng về các tàu bè và cách chuyển vận dùng hơi nước. Fulton đã nhìn thấy con tàu chạy bằng bánh xe guồng do Symington chế tạo vào năm 1801 dùng để kéo các thuyền bè trên sông. Trong khi đó, Fulton cũng quan tâm tới họa đồ của chiếc tàu ngầm nguyên tử Nautilus. Nhưng sau khi thất bại vì không được chính quyền chú ý và giúp đỡ, Fulton mới quay về việc chế tạo tàu thủy. Chính trong lúc quyết định này, Fulton gặp Livingston, tân Lãnh Sự Hoa Kỳ tại nước Pháp mà cũng là người vừa rút tỉa được các kinh nghiệm về tàu thủy với Stevens. Fulton cũng được xem họa đồ về chiếc tàu của Fitch khi đó đang ở trong tay viên Lãnh Sự Hoa Kỳ này. Do đó sự cộng tác của hai người dễ mang lại kết quả hơn.

Khởi đầu Fulton thử nghiệm các phương pháp đẩy và xem xét các kiểu vỏ tàu. Fulton coi tàu và máy là một đơn vị chứ không phải là hai thứ riêng rẽ. Vào năm 1803,Fulton hoàn thành con tàu dài 23 mét, rộng 2.4 mét. Con tàu bỏ neo trên giòng sông Seine nhưng rồi bị vỡ đôi trước khi thử. Bộ máy tàu được cứu thoát để rồi được đặt vào một vỏ tàu mới cứng cáp hơn. Cùng trong năm này, con tàu mới được hạ thủy. Lần thử thứ nhất thành công, tàu đã di chuyển một cách kỳ dị trên mặt nước nhờ hai bánh xe guồng đạp nước. Tuy nhiên dân chúng chứng kiến cuộc thử vẫn coi đây là một sản phẩm mới, hơn là một bước tiến nhiều triển vọng lớn lao.

Sự thành công này khiến cho Fulton nổi danh nhất về tàu thủy trong 4 năm liên tiếp. Đồng thời Fulton sang nước Anh để gặp Boulton và Watt với ý định hỏi mua động cơ hơi nước mang về Hoa Kỳ. Vào thời kỳ này tại nước Anh có luật cấm xuất cảng loại động cơ đó, nên Fulton đã gặp khó khăn nhưng đã học được nhiều hiểu biết về máy hơi nước.

Sơ đồ tàu của Fulton
Sơ đồ tàu của Fulton (Ảnh: submarine)

Năm 1806, Fulton trở về Hoa Kỳ với kiến thức rộng rãi về kênh đào, tàu ngầm và tàu thủy. Fulton bắt tay vào việc vẽ vỏ tàu. Vào năm sau con tàu mới được lắp động cơ do Watt chế tạo. Con tàu này trông rất xấu xí, được đặt tên là Clermont theo tên miền ruộng đất của Livingston tại Hudson. Tàu Clermont thực ra là một sà lan phẳng đáy, thiếu tỉ lệ về chiều dài, bộ máy tàu được đặt phía trước và làm chuyển động hai bánh xe guồng không che phủ gồm những guồng dài 15 feet. Khi tàu chạy, nước văng ướt khắp phần giữa tàu.

Ngày 17/8/1807, 40 hành khách đã dự một cuộc du ngoạn khứ hồi từ New York tới Albany mà không gặp một tai nạn nào. Tàu chạy được 150 dặm trong 32 giờ, như vậy tốc dộ ngược giòng của tàu là 5 dặm một giờ. Cuộc chạy thử này đã là một điểm son trong lịch sử hàng hải và cũng chứng minh cách vận chuyển thành công dùng máy hơi nước. Nhưng hơn hẳn nhiều nhà phát minh khác, Fulton đã cải cách tàu thủy thành một loại tàu đẹp mắt và theo đòi hỏi của dân chúng. Trong các lần thử sau, Fulton đã cho bao phủ các guồng nước và lập ra các phòng hành khách có giường ngủ và dụng cụ nấu bếp. Vì thế Công Ty Tàu Thủy Trên Sông Hudson (the Hudson River Steamboat Company) thành hình. Vào tháng 9 năm 1807, bắt đầu có các chuyến tàu theo thời biểu và giá vé từ New York tới Albany là 7 mỹ kim. Trong các năm sau, hai con tàu thủy nữa được đóng để cung cấp các chuyến đi hàng ngày giữa hai địa điểm này.

Trong cuộc chiến tranh 1812, Fulton được giao cho công việc đóng chiếc tàu chiến đầu tiên. Thực ra đây là một con tàu với hai vỏ tàu đặt cạnh nhau và bánh xe guồng được đặt ở giữa, cạnh tàu được lắp các tấm thép. Về sau con tàu chiến này vẫn còn dở dang mặc dù chiến tranh đã chấm dứt và Fulton đã qua đời vào năm 1815. 

Cánh tay robot mềm – Phát minh đột phá cho các nhiệm vụ tinh xảo

 Cánh tay mềm này tạo ra sự cân bằng lý tưởng giữa độ mềm dẻo và lực kẹp.

Cánh tay robot mềm dẻo không chỉ làm mờ ranh giới giữa robot và sinh vật sống mà còn hứa hẹn một tương lai mới cho các ứng dụng khoa học Công Nghệ.

Trong thế giới khoa học viễn tưởng, những robot thép mạnh mẽ, chắc chắn thường xuất hiện như hình mẫu lý tưởng.

Thế nhưng, một phát minh mới từ các nhà khoa học Trung Quốc – cánh tay robot mềm dẻo và linh hoạt – đang dần thay đổi quan niệm này.

 Cánh tay mềm này tạo ra sự cân bằng lý tưởng giữa độ mềm dẻo và lực kẹp.
 Cánh tay mềm này tạo ra sự cân bằng lý tưởng giữa độ mềm dẻo và lực kẹp. (Nguồn: Xinhua)

Theo báo cáo công bố trên tạp chí Advanced Materials, một video trình diễn đầy ấn tượng đã cho thấy hai dải silicon đen mềm mại, nhỏ như đôi đũa, được điều khiển bằng từ trường với độ chính xác cao, đủ nhẹ nhàng để nâng và vận chuyển một bông hoa bồ công anh mà không làm tổn hại đến cánh hoa mỏng manh.

Đây là sáng tạo đột phá từ nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc (USTC), nơi họ kết hợp các hạt từ tính trong vật liệu silicon xốp, tạo nên một cánh tay robot vừa mềm mại, vừa nhạy bén.

Theo các nhà nghiên cứu, chỉ cần điều chỉnh đôi chút, thiết bị này có thể ứng dụng trong nhiều lĩnh vực – từ hỗ trợ thụ tinh trong ống nghiệm đến cứu hộ động vật hoang dã.

Khác với những ngón tay robot truyền thống bằng kim loại có thể gây áp lực quá lớn, cánh tay mềm này tạo ra sự cân bằng lý tưởng giữa độ mềm dẻo và lực kẹp, lý tưởng cho việc xử lý các vật thể nhạy cảm.

Nhóm USTC đã vượt qua những giới hạn kỹ thuật bằng cách tích hợp từ tính vào cấu trúc xốp của vật liệu, giúp cánh tay robot vừa có sức mạnh, vừa linh hoạt.

Cấu trúc xốp này giúp hấp thụ năng lượng, giảm nguy cơ làm hỏng các vật thể tinh tế, đồng thời tăng độ ma sát, cải thiện sự ổn định và độ tin cậy khi kẹp.

Trong các thử nghiệm, cánh tay robot đã thành công khi nâng những vật thể khó xử lý như cá vàng trơn và trứng cút không vỏ. Nhờ khả năng điều khiển từ xa và tích hợp dễ dàng với các thiết bị di động, cánh tay này có thể thực hiện các thao tác tinh tế trong y tế, như xử lý tế bào, tinh trùng và mô, đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu sinh sản, y học tái tạo và sàng lọc thuốc.

Ngoài ra, cánh tay robot còn có thể tương thích với máy bay không người lái, mở ra khả năng thu thập mẫu vật trong môi trường tự nhiên hoặc cứu hộ động vật nhỏ.

Cánh tay mềm dẻo này không chỉ làm mờ ranh giới giữa robot và sinh vật sống mà còn hứa hẹn một tương lai mới cho các ứng dụng khoa học Công Nghệ.

Một phát minh mới ra mắt, đầu bếp có nguy cơ thất nghiệp, Tết “cháy osin” không còn là nỗi lo

Robot Mobile ALOHA có thể nấu được nhiều món ăn như con người.

Phát minh này có khả năng ưu việt đến nỗi có thể nấu ăn như đầu bếp, dọn nhiều việc nhà như người giúp việc.

Cứ đến hẹn lại lên, trước và sau Tết Nguyên đán, nhiều gia đình lại lo lắng, nháo nhác cả lên vì người giúp việc nghỉ Tết sớm, lên muộn, hoặc thậm chí là thoái thác tìm việc khác. Dịp Tết cũng chính là thời kỳ cao điểm của các dịch vụ giúp việc giai đình. Chính vì cầu lớn hơn cung nên khiến những “ô sin” được cho là đắt giá trong dịp Tết.

Nếu phát minh dưới đây được nhân rộng, có lẽ sẽ giúp nhiều gia đình giải quyết được bài toán “Tết cháy osin” trong thời gian tới.

Phát minh đặc biệt này tên là Mobile ALOHA, một con robot do ĐH Stanford sáng chế. Mới đây, ĐH Stanford giới thiệu về Mobile ALOHA, con robot với cách tay được thiết kế đặc biệt nhằm học theo thao tác tương tự con người.

Robot Mobile ALOHA có thể nấu được nhiều món ăn như con người.
Robot Mobile ALOHA có thể nấu được nhiều món ăn như con người. (Ảnh: ĐH Stanford)

Robot Mobile ALOHA là thành quả của hai nhà khoa học máy tính, đồng thời là nghiên cứu sinh người Trung Quốc tên là Tony Zhao và Zipeng Fu, sau ba tháng phát triển.

Ngay khi ra mắt, robot Moblie ALOHA thu hút sự chú ý của giới Công Nghệ vì có khả năng phối hợp các động tác nhuần nhuyễn. Cụ thể, thay vì tương tác với các vật thể theo tọa độ được lập trình sẵn, con robot này có khả năng đồng bộ chuyển động thông qua một hệ thống cơ khí. Sự kết hợp này sẽ cung cấp dữ liệu để mô hình trí tuệ nhân tạo (AI) học hỏi và tái hiện được hành động với độ chính xác cao.

Theo hai chuyên gia Zipeng Fu và Tony Zhao, họ đã xây dựng phần mềm nhờ sự cố vấn của các giáo sư tại ĐH Stanford, sau đố tự lắp ráp phần cứng nhằm tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, chi phí làm ra robot Mobile ALOHA vẫn tốn đến 32.000 USD.

Theo các chuyên gia, robot Mobile ALOHA được thiết kế để hỗ trợ cho con người trong cuộc sống. Nó có thể thực hiện được các công việc phức tạp, chẳng hạn như nấu ăn, dọn nhà.

Robot có thể tái hiện 90% hành động của con người


Robot Mobile ALOHA có thể nấu ăn và giúp dọn dẹp nhà cửa một cách nhanh chóng. (Ảnh: ĐH Stanford).

Cấu tạo của Mobile ALOHA gồm hai cánh tay với độ linh hoạt cao, cùng phần chân có thể di chuyển được bằng bánh xe. Đặc biệt, robot này được trang bị AI. Mô hình AI của nó được huấn luyện dựa trên các dữ liệu từ hành động của con người. Theo đó, trung bình chỉ với khoảng 50 lần minh họa cho mỗi nhiệm vụ, robot Mobile ALOHA có thể tái hiện với tỷ lệ thành công lên tới trên 90%.


Robot Mobile ALOHA có nhiều lợi thế hơn so với các robot khác vì nó có khả năng học hỏi trực tiếp. (Ảnh: ĐH Stanford).

Ngoài ra, khả năng học hỏi trực tiếp cũng giúp cho robot Mobile ALOHA có nhiều lợi thế hơn so với các robot được lập trình và điều chỉnh thủ công. Các chuyên gia của ĐH Stanford cho hay, Mobile ALOHA đạt được vận tốc 1,4 m/s, tương đương với người đi bộ. Hai cánh tay của nó có thể vươn tới độ cao 2 m và xa 1 m, rất phù hợp để thao tác trong không gian gia đình hoặc văn phòng.

Bên cạnh việc nấu ăn và hỗ trợ việc nhà, trong tương lai, các nhà khoa học kỳ vọng robot Mobile ALOHA có thể được cải tiến để có thể đảm nhiệm được nhiều công việc khó hơn, chẳng hạn như thay thế hoàn toàn một người giúp việc trong gia đình, đồng thời ứng dụng Công Nghệ của robot này vào nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống.

Điện thoại quang – thiết bị truyền âm thanh bằng ánh sáng

Minh họa bộ truyền phát của điện thoại quang.

Nhà phát minh Alexander Graham Bell từng rất kỳ vọng vào điện thoại quang, hình dung rằng liên lạc không dây sẽ thay thế mạng lưới dây điện thoại rối rắm.

Ngày nay, điện thoại thường được coi là phát minh vĩ đại nhất của Alexander Graham Bell (1847 – 1922). Tuy nhiên, Bell không đồng ý với điều này. Ông từng mô tả việc phát minh ra điện thoại quang hay photophone – thiết bị truyền âm thanh bằng ánh sáng – mới là thành tựu lớn nhất đời mình.

Minh họa bộ truyền phát của điện thoại quang.
Minh họa bộ truyền phát của điện thoại quang. (Ảnh: Amusing Planet).

Năm 1878, khi đang hưởng tuần trăng mật ở châu Âu cùng vợ, Bell đọc được một nghiên cứu của Robert Sabine, xuất bản trên tạp chí Nature, về đặc tính mới phát hiện của chất selenium, đó là có điện trở biến đổi khi bị ánh sáng tác động. Trong các thí nghiệm của mình, Sabine dùng dụng cụ đo để xem xét những ảnh hưởng của ánh sáng với thanh selenium nối trong mạch điện với pin. “Sự che bóng nhỏ nhất hoặc biến động khác trong cường độ ánh sáng đã dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong suất điện động của hai vật thể“, Sabine viết.

Sabine cho rằng có thể sử dụng selenium như một trong các nguyên tố trong pin Galvanic ướt, nhưng Bell đã tìm thấy một ứng dụng thiết thực hơn. Theo Bell, nếu bổ sung một bộ thu nhận điện thoại vào cùng mạch điện, ông sẽ nghe thấy những thứ mà Sabine chỉ có thể nhìn.

Bell thuê Charles Sumner Tainter, một người chế tạo nhạc cụ, và cùng nhau tạo ra một chiếc điện thoại quang hoạt động được trong phòng thí nghiệm bằng cách gắn bộ lưới kim loại vào một tấm màn chắn, với chùm ánh sáng bị gián đoạn do chuyển động của các lưới khi phản ứng với tiếng nói. Khi chùm ánh sáng biến điệu chiếu vào bộ thu selenium, Bell có thể nghe rõ tiếng Tainter hát bằng tai nghe của mình.

Ngày 1/4/1880, Bell và Tainter liên lạc thành công ở khoảng cách khoảng 79 m. Vài tháng sau, vào ngày 21/6, họ tiếp tục liên lạc rõ ràng ở khoảng cách 213 m khi sử dụng ánh sáng Mặt Trời làm nguồn sáng. Tainter đứng trên mái của trường Franklin và trò chuyện với Bell, lúc này đang đứng trong phòng thí nghiệm. Bell sau đó ra hiệu cho Tainter bằng cách vẫy chiếc mũ của mình từ cửa sổ.

Minh họa bộ thu nhận của điện thoại quang.
Minh họa bộ thu nhận của điện thoại quang. (Ảnh: Amusing Planet)

Bell hy vọng phát minh điện thoại quang mới của mình có thể được sử dụng trên tàu thuyền ngoài khơi. Ông cũng hình dung rằng việc liên lạc không dây sẽ thay thế mạng lưới dây điện thoại rối rắm mọc lên ngày càng nhiều dọc theo những con đường nhộn nhịp của thành phố.

“Chúng ta sẽ có thể trò chuyện bằng ánh sáng với bất kỳ khoảng cách khả kiến nào mà không cần bất cứ dây nối nào. Trong khoa học đại cương, điện thoại quang sẽ dẫn đến những phát hiện mà ngày nay chưa mơ tới”, Bell chia sẻ.

Tuy nhiên, Bell đã không bảo vệ được đường truyền khỏi tác động ngoài trời như mây, sương mù, mưa hay tuyết – những thứ có thể dễ dàng làm gián đoạn quá trình truyền ánh sáng. Không lâu sau, khả năng truyền sóng vô tuyến của nhà phát minh Guglielmo Marconi bắt đầu vượt xa phạm vi tối đa của điện thoại quang.

Ngày nay, các chùm sáng là phương tiện truyền tải thông tin chính trên toàn cầu, dù không phải ở dạng mà Bell dự tính. Thay vì truyền tín hiệu ánh sáng không dây, giờ đây chúng được truyền xuyên lục địa bằng các sợi quang.

Những phát minh thay đổi thế giới trong năm Giáp Thìn

Phiên bản máy tính để bàn đầu tiên

Nhiều phát minh đột phá trên các lĩnh vực khác nhau đã xuất hiện trong lịch sử những năm Giáp Thìn.

P101, chiếc máy tính để bàn đầu tiên trong lịch sử, được ra mắt tại Hội chợ Thế giới New York (Mỹ) năm Giáp Thìn (1964).

Phiên bản máy tính để bàn đầu tiên
Phiên bản máy tính để bàn đầu tiên.

Chiếc máy do Pier Giorgio Perotto, nhà tiên phong về điện tử người Ý, thiết kế. Kích thước của máy là 275 x 465 x 610 (mm), nặng 35,5kg, tiêu thụ 0,35kW điện.

Phần cứng của máy bao gồm các thiết bị rời rạc, bao gồm bóng bán dẫn, diode, điện trở và tụ điện được gắn trên các cụm thẻ mạch nhựa phenolic.

Máy có bộ nhớ thông tin 240 byte, rất nhỏ so với các máy thời bấy giờ nhưng đã là bước ngoặt ở thời điểm đó.

Máy có thể thực hiện các phép toán cộng, trừ, nhân, chia, căn bậc hai và giá trị tuyệt đối, cho kết quả chính xác đến 22 chữ số và tối đa 15 chữ số thập phân.

Dữ liệu được ghi trong các thẻ nhựa và có thể xuất ra giấy in 9cm.

Dù là sản phẩm đầu tiên được trưng bày tại hội chợ nhưng ngay sau đó 40.000 chiếc đã được bán. 90% thị phần là ở Mỹ, mỗi máy có giá 3.200 USD.

NASA đã mua loại máy tính này để lập kế hoạch và tính toán quỹ đạo của các chương trình không gian, bao gồm cả sứ mệnh Apollo 11 đưa con người lên Mặt trăng.

Các ống chân không đầu tiên của John A. Fleming.
Các ống chân không đầu tiên của John A. Fleming.

Năm 1904, John A. Fleming thuộc Đại học London (Anh) phát minh ra ống diode chân không. Các diode chân không này có thể dẫn điện theo một hướng, điều chỉnh dòng điện xoay chiều hoặc phát hiện tín hiệu.

Phát minh ống chân không thường được coi là sự khởi đầu của thiết bị điện tử. Phiên bản do Fleming sáng chế còn khá sơ khai, chứa một cực âm phát điện tử được làm nóng và một cực dương. Các electron di chuyển theo một hướng xuyên qua thiết bị, từ cực âm đến cực dương.

Thiết bị sau đó được cải tiến để trở thành phần chính trong mạch điện tử nửa đầu thế kỷ 20.

Diode của Fleming được sử dụng trong các máy thu sóng vô tuyến, đóng vai trò quan trọng cho phát triển đài phát thanh, truyền hình, radar… suốt nhiều thập kỷ cho tới khi nhường chỗ cho Công Nghệ điện tử trạng thái rắn.

Tàu ngầm Aigrette của Pháp được hạ thủy năm Giáp Thìn
Tàu ngầm Aigrette của Pháp được hạ thủy năm Giáp Thìn.

Cũng trong năm 1904, chiếc tàu ngầm Aigrette chạy bằng diesel đầu tiên trên thế giới chính thức được hạ thủy. Chiếc tàu do Pháp sản xuất này có lượng giãn nước khi nổi là 181 tấn và lượng giãn nước khi lặn là 257 tấn.

Chiều dài của tàu là 35,9m, ngang 4,04m và độ sâu của mớn nước là 2,63m. Tàu có một trục duy nhất được dẫn động bởi một động cơ diesel 150 mã lực và một động cơ điện 130 mã lực.

Tốc độ tối đa của tàu là 17,2km/h trên mặt nước và 11,5km/h khi lặn.

Tàu được trang bị hai bệ phóng ngư lôi Drzewiecki 450mm và hai ngư lôi 450mm đặt trong giá đỡ bên ngoài.

Aigrette được đặt hàng vào ngày 13-5-1902, hạ thủy vào tháng 2-1904 và đưa vào hoạt động năm 1908.

Trong Thế chiến thứ nhất, Aigrette phục vụ ở các vị trí phòng thủ ở Brest và ở Cherbourg (Pháp). Aigrette ngừng hoạt động vào tháng 11-1919 và bị bán làm đồ tái chế tháng 4-1920.

Một phần trong hệ thống truyền mã Morse đầu tiên
Một phần trong hệ thống truyền mã Morse đầu tiên – (Ảnh: BRITANNICA).

Điện tín có đặc điểm là truyền tin qua khoảng cách xa bằng tín hiệu mã hóa. Hình thức này được dùng nhiều cho liên lạc trong ngành hàng hải và hàng không.

Sự ra đời điện tín có mối quan hệ mật thiết với sự hình thành của mã Morse. Mã Morse được đặt tên theo nhà phát minh Samuel F.B. Morse, người dùng cách mã hóa văn bản ký tự thành dấu chấm và dấu gạch ngang cho truyền tín hiệu.

Ngày 24-5-1844, trước các quan chức chính phủ ở thủ đô Washington (Mỹ), Samuel Morse trình diễn bức điện tín đầu tiên, gửi đến trợ lý Alfred Vail của Morse ở Baltimore với nội dung “What hath God Wrought?”, một câu trích từ Kinh Thánh.

Kể từ đây, Morse và Vail liên tục cải tiến Công Nghệ giải điện tín. Một số đường dây điện tín đầu tiên được xây dựng từ năm 1845 đến 1848.

Đến đầu những năm 1900, nhiều người bắt đầu sử dụng những ký tự phổ biến trong mã Morse là “· · · – – – · · ·” thể hiện tín hiệu cầu cứu khẩn cấp khi đi biển. Tín hiệu này tương đương với S-O-S được dùng rộng rãi ngày nay.

Bức ảnh vẽ lại cảnh lớp học đúng hôm mà Gauß tìm ra cách tính tổng nổi tiếng
Bức ảnh vẽ lại cảnh lớp học đúng hôm mà Gauß tìm ra cách tính tổng nổi tiếng

Nhà toán học người Đức Johann Carl Friedrich Gauß (1777 – 1855) nổi tiếng thế giới với bài toán tính tổng 1+ 2+3+4+…+100.

Năm 1784, khi Gauß lên 7, thầy giáo giao cho các học sinh lớp Gauß đầu bài tính tổng các số từ 1 đến 100. Trong khi các bạn làm phép cộng lần lượt theo thứ tự thì Gauß ra đáp án chỉ sau vài giây.

Ông nhận thấy khi “bắt cặp” lần lượt hai số ở đầu và cuối dãy số, chẳng hạn 100+1, 99+2, 98+3… thì tổng đều giống nhau là 101. 100 số thì có 50 cặp, nên lấy 101 nhân 50, kết quả là 5.050.

Sau này, các công thức tính tổng đã được phát triển và được đặt theo tên của ông. Một trong những công thức Gauß điển hình được dạy ở bậc phổ thông ở Việt Nam là tổng của dãy số 1+2+3+…+n = (n x (n+1))/2.

Bức tượng ghi nhận những đóng góp của nhà toán học Gauß
Bức tượng ghi nhận những đóng góp của nhà toán học Gauß – (Ảnh: BRITANNICA).

Phát minh thủy tinh có thể tạo ra dòng điện

Một mẩu thủy tinh tellurite được khắc laser femtosecond có thể tạo ra dòng điện

Với vết khắc bằng laser trên bề mặt, thủy tinh tellurite tạo ra một dòng điện phản ứng với ánh sáng cực tím và ánh sáng có thể nhìn thấy được.

Các nhà khoa học thuộc Viện Công nghệ Tokyo (Nhật Bản) và Viện Công nghệ Lausanne (Thụy Sĩ) đã phát minh loại thủy tinh có thể tạo ra dòng điện khi tiếp xúc với ánh sáng, qua đó mở ra triển vọng về một nguồn năng lượng sạch mới trong dài hạn.

Một mẩu thủy tinh tellurite được khắc laser femtosecond có thể tạo ra dòng điện
Một mẩu thủy tinh tellurite được khắc laser femtosecond (laser phát ra xung ánh sáng siêu ngắn) có thể tạo ra dòng điện – (Ảnh: KYODO).

Nghiên cứu được đăng trên tạp chí khoa học Physical Review Applied (Mỹ), theo đó các nhà khoa học đã dùng laser femtosecond – laser phát ra xung ánh sáng siêu ngắn – khắc lên bề mặt của thủy tinh và đã tạo ra được một dòng điện.

Giáo sư Yves Bellouard tại Viện Công nghệ Lausanne và là giám đốc Phòng thí nghiệm Galatea của viện này cho biết Công Nghệ này “đáng ngạc nhiên và đầy sáng tạo” vì có thể biến đổi vật liệu mà không cần thêm bất cứ thứ gì.

Theo chuyên gia về Công Nghệ laser này, một thực tập sinh tại Phòng thí nghiệm Galatea – Goezden Torun trước đó đã có kinh nghiệm sử dụng laser femtosecond trên các loại thủy tinh khác nhau, trong đó có thủy tinh tellurite – một chất liệu công nghiệp được sử dụng để sản xuất sợi quang.

Trong quá trình nghiên cứu, Torun đã tình cờ tạo ra một tinh thể bán dẫn trên thủy tinh tellurite. Với vết khắc bằng laser trên bề mặt, thủy tinh tellurite tạo ra một dòng điện phản ứng với ánh sáng cực tím và ánh sáng có thể nhìn thấy được.

Giáo sư Tetsuo Kishi tại Viện Công nghệ Tokyo cho biết: “Thủy tinh là một vật liệu thụ động chỉ để ánh sáng đi qua, nhưng sau khi sử dụng laser femtosecond, loại thủy tinh này biến thành một vật liệu hoạt động, có thể truyền dòng điện như một chất bán dẫn”.

Theo giáo sư Tetsuo Kishi, nhóm nghiên cứu có thể thay đổi hình dạng của thủy tinh, làm cho thủy tinh nhẹ và mỏng hơn bằng cách thay đổi thành phần để phát minh này hữu ích và thực tế hơn.

Mặc dù vẫn còn nhiều thách thức, nhưng các nhà nghiên cứu hy vọng một ngày nào đó có thể phát triển được các cửa sổ phủ thủy tinh tellurite ứng dụng laser femtosecond.

Ông Bellouard cho biết: “Điều này sẽ tạo nên một nguồn năng lượng sạch và theo đó giảm nhu cầu sử dụng nhiên liệu hóa thạch”.