Lưu trữ danh mục: Tin Tức Công Nghệ

Súng laser mới của Trung Quốc có thể đốt cháy da trong 1 giây ở cự li 800 mét

Cảnh sát có thể tấn công mục tiêu từ xa mà không cần dùng để vũ lực gây chết người.

Các nhà khoa học Trung Quốc đang nghiên cứu một loại vũ khí laser cầm tay mới có khả năng đốt cháy da và quần áo cách xa tới nửa dặm (hơn 800 mét).

Theo South China Morning Post, súng trường laser mới này sẽ được sử dụng bởi các đội chống khủng bố trong lực lượng cảnh sát vũ trang của Trung Quốc. Các phiên bản thử nghiệm của mẫu súng này đã được trình diễn tại Học viện quang học và cơ học chính xác của Trung Quốc ở Thiểm Tây.

Cảnh sát có thể tấn công mục tiêu từ xa mà không cần dùng để vũ lực gây chết người.
Cảnh sát có thể tấn công mục tiêu từ xa mà không cần dùng để vũ lực gây chết người.

Súng trường tấn công ZKZM sẽ tạo ra “sự đốt cháy tức thời” mô tế bào người và sẽ “đốt cháy quần áo trong một giây”. Một nhà nghiên cứu giấu tên từ Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc nói thêm: “Nếu quần áo làm từ vải dễ cháy, tia laser từ súng có thể làm cho cả cơ thể bốc cháy”.

Khẩu súng không đủ mạnh để giết ai đó nhưng các nhà nghiên cứu cho biết nó tạo ra “sự đau đớn vượt mức chịu đựng”.

Các tình huống tiềm năng để sử dụng súng laser bao gồm cả giải cứu con tin. Cảnh sát có thể tấn công mục tiêu từ xa mà không cần dùng để vũ lực gây chết người.

Các chùm tia laser không thể nhìn thấy bằng mắt thường nên loại súng này có thể được sử dụng cho các nhiệm vụ bí mật. Súng laser này có trọng lượng 3kg và kích thước tương đương một khẩu AK 47.

Vũ khí laser từ lâu đã là sản phẩm của khoa học viễn tưởng. Các hạn chế về pin vẫn là thách thức chính với các nhà khoa học trong việc phát triển loại vũ khí này.

Công ty hàng không vũ trụ và phòng thủ khổng lồ Lockheed Martin trước đây đã phát triển các hệ thống chùm tia laser có thể tấn công các máy bay hoặc các phương tiện trên mặt đất.

Súng laser này có trọng lượng 3kg và kích thước tương đương một khẩu AK 47.
Súng laser này có trọng lượng 3kg và kích thước tương đương một khẩu AK 47.

Lợi thế của súng laser so với so với các loại vũ khí truyền thống khác chính là “sự im lặng”, rẻ hơn và ít gây thiệt hại về tài sản.

Thí nghiệm dùng súng laser để cắt cây.

Quên AI đi, thời của trí tuệ hữu cơ tới rồi: Công nghệ táo bạo khiến chip máy tính trở nên lỗi thời

Khi trí tuệ nhân tạo đang là chủ đề “nóng” của các buổi thảo luận thì các nhà khoa học sắp ra mắt loại trí thông minh mạnh hơn AI tới 1.000 lần.

Sự ra đời của AI (trí tuệ nhân tạo) gây ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của con người trong một thập kỷ qua. Trong khi sự trưởng thành của AI vẫn đang gây ra nhiều tranh cãi thì các nhà khoa học đã bắt tay vào chế tạo ra một loại trí thông minh còn cao cấp hơn nhiều. Đó chính là OI (trí tuệ hữu cơ).


Trí tuệ hữu cơ là một dạng trí tuệ nhân tạo được tạo ra từ tế bào não của con người. (Ảnh: Forbes)

Trí tuệ hữu cơ hay còn gọi là Organic Intelligent (OI) là một dạng trí tuệ nhân tạo được tạo ra từ tế bào não của con người. Các nhà khoa học sẽ sử dụng công nghệ nuôi cấy 3D và phát triển các tế bào não người. Sau đó họ sẽ dùng công nghệ điện toán để huấn luyện cách tư duy cũng như hành vi và từ đó tạo ra một thực thể lai giữa người và máy gọi là máy tính sinh hoặc hay công nghệ điện toán sinh học. Chương trình này do các nhà nghiên cứu tại đại học John Hopkins (Mỹ) thực hiện.

Theo Lena Smirnova, nhà nghiên cứu tại đại học John Hopkins chia sẻ, tầm nhìn của dự án phát triển trí tuệ hữu cơ là lợi dụng sức mạnh của hệ thống sinh học trên sinh vật để thúc đẩy lĩnh vực khoa học sự sống, công nghệ sinh học và khoa học máy tính.

Nhóm nghiên cứu hiện đang nuôi cấy một “bộ não sinh học” được phát triển từ các tế bào não người trong phòng thí nghiệm. Nó có hình như một quả cầu nhỏ tạo thành từ khoảng 50.000 tế bào, với một hệ thống thần kinh có kích thước bằng một con ruồi giấm. Thế nhưng bên trong vật thể này là các tế bào não bắn qua các khớp thần kinh và các xung điện di chuyển qua lại. Với tình hình hiện tại, các nhà khoa học có thể mất nhiều thập kỷ để mở rộng quy mô này thành một hệ thống não bộ thông minh như chuột.

"Bộ não sinh học" được phát triển từ các tế bào não người trong phòng thí nghiệm
Các nhà khoa học đang nuôi cấy một “bộ não sinh học” được phát triển từ các tế bào não người trong phòng thí nghiệm. (Ảnh: Forbes)

Các nhà khoa học đang phát triển điện toán sinh học bằng cách sử dụng nền 3D của tế bào não người và công nghệ giao diện não và máy. Các cơ quan này chia sẻ nhiệm vụ như cấu trúc và chức năng của não trong vai trò chính là học tập và ghi nhớ. Nói một cách dễ hiểu, chúng sẽ đóng vai trò là phần cứng sinh học cho máy móc.

Thomas Hartung, giáo sư ngành Khoa học sức khỏe môi trường tại Hopkins và là trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết: “Máy tính hiện nay không thể sánh với bộ não của con người. Bộ não con người có khả năng lưu trữ thông tin đáng kinh ngạc: một noggin trung bình có thể lưu trữ khoảng 2.500 terabyte, gấp khoảng 1.000 lần so với MacBook Air mới nhất. Mặc dù máy tính dựa trên silicon tính toán tốt hơn với các con số, nhưng bộ não lại học hỏi tốt hơn. Không chỉ vậy, chúng còn sử dụng ít năng lượng hơn nhiều so với silicon”.

Bộ não có khoảng 100 tỷ tế bào thần kinh được liên kết thông qua hơn 1015 điểm kết nối.
Bộ não có khoảng 100 tỷ tế bào thần kinh được liên kết thông qua hơn 1015 điểm kết nối. (Ảnh: Forbes)

Siêu máy tính Frontier được đặt ở Tennessee, Mỹ có giá tới 600 triệu USD với diện tích lắp đặt lên tới 631 nghìn m2. Thế nhưng tới tháng 6 năm ngoái, nó mới lần đầu vượt khả năng tính toán của bộ não của người trong khi tiêu tốn năng lượng gấp 1 triệu lần.

Ngoài ra, máy tính silicon đang đạt đến giới hạn vật lý vì không thể đóng gói nhiều bóng bán dẫn hơn vào một con chip nhỏ nhưng bộ não thì hoàn toàn khác. Nó có khoảng 100 tỷ tế bào thần kinh được liên kết thông qua hơn 1015 điểm kết nối và nó chính là giải pháp hoàn hảo để nâng cấp trí tuệ của máy móc.

Một số điểm khác biệt chính giữa trí thông minh hữu cơ và trí thông minh nhân tạo gồm:


Trí thông minh hữu cơ và trí thông minh nhân tạo về cơ bản là khác nhau về khả năng, giới hạn và cấu trúc cơ bản của chúng. (Ảnh: Forbes)

Tóm lại, trí thông minh hữu cơ và trí thông minh nhân tạo về cơ bản là khác nhau về khả năng, giới hạn và cấu trúc cơ bản của chúng.

Rõ ràng việc sử dụng trí tuệ hữu cơ có thể giải quyết vấn đề tiêu tốn quá nhiều năng lượng mà các siêu máy tính chạy bằng chip bán dẫn silicon đang phải đối mặt. Từ cách so sánh bên trên, ta có thể thấy các siêu máy tính dù có khả năng xử lý các con số với tốc độ ánh sáng nhưng trí tuệ hữu cơ có khả năng xử lý các vấn đề phức tạp hơn mà năng lượng tiêu tốn ít hơn nhiều.


Các nhà khoa học vẫn đặt tham vọng sẽ sớm cho ra mắt công nghệ trí tuệ hữu cơ cao cấp hơn AI nhiều lần. (Ảnh: Forbes)

Tuy nhiên, cũng giống như với AI, các nhà khoa học vẫn lo lắng về những nguy cơ tiềm ẩn đe dọa nhân loại nếu như trí tuệ hữ cơ vượt khỏi tầm kiểm soát của chúng ta. Vì vậy, chúng ta vẫn cần có các nhà khoa học độc lập cũng như các nhà đạo đức sinh học giám sát các hoạt động của trí tuệ hữu cơ.

May mắn là từ Phòng thí nghiệm Cortical của Úc cho biết họ đã phát triển 800.000 tế bào não trong một đĩa thí nghiệm, trong khi đó, để cung cấp năng lượng cho máy tính hoặc bộ nhớ lưu trữ tương tự như não người, họ cần khối lượng ít nhất 10 triệu tế bào. Dù vậy, các nhà khoa học vẫn đặt tham vọng sẽ sớm cho ra mắt công nghệ trí tuệ hữu cơ cao cấp hơn AI nhiều lần. Nếu thành công trong tương lai, công nghệ táo bạo này có thể khiến chip máy tính hiện nay trở nên lỗi thời.

Công ty Mỹ phát triển máy bay không cánh quạt tốc độ gần 1.000km/h

Jetoptera không sử dụng cánh quạt để tạo lực đẩy như máy bay thông thường.

Công ty Jetoptera đang phát triển mẫu máy bay lướt nhanh hơn các máy bay phản lực chở khách bằng cách sử dụng thiết kế cánh độc đáo.

Jetoptera không sử dụng cánh quạt để tạo lực đẩy như máy bay thông thường.
Jetoptera không sử dụng cánh quạt để tạo lực đẩy như máy bay thông thường. (Ảnh: Jetoptera)

Jetoptera, mẫu máy bay cất hạ cánh thẳng đứng (VTOL) không cánh quạt tiên tiến của công ty cùng tên ở Seattle, chứng minh khả năng đạt tốc độ 0,8 Mach (988km/h) trong quá trình thử nghiệm, nhanh hơn Boeing Dreamliner và nhanh gấp đôi thiết kế cánh xoay nghiêng. Công ty chia sẻ dữ liệu sau khi hoàn thành hợp đồng Nghiên cứu sáng tạo kinh doanh nhỏ (SBIR) thứ 4 với Không quân Mỹ, Interesting Engineering hôm 17/1 đưa tin.

Thay vì máy nén điện, công ty sử dụng động cơ turbine khí, dẫn khí thải qua hệ thống đẩy lỏng (FPS). Không khí nén được dẫn qua những khe nhỏ xung quanh bề mặt bên trong của thiết bị đẩy rỗng. Theo Jetoptera, hệ thống cung cấp nhiều lực đẩy hơn 10% và sử dụng ít nhiên liệu hơn 50% so với động cơ turbine phản lực nhỏ. So với động cơ turbine phản lực cánh quạt, nó nhẹ hơn 30% và ít phức tạp hơn nhiều về mặt máy móc. Thiết kế của Jetoptera cũng êm hơn tới 25% so với động cơ đẩy kích thước tương đương.

Jetoptera cho biết công ty đã chế tạo một mô hình cỡ nhỏ của thiết kế trong chương trình AFWERX HSVTOL. Chương trình này quy tụ 11 công ty tham gia thiết kế máy bay quân sự VTOL thế hệ tiếp theo có thể đạt hiệu suất cao hơn nhiều bất kỳ mẫu nào có trên thị trường hiện nay. Mô hình cỡ nhỏ đang được thử nghiệm trong đường hầm gió và có thể đạt tốc độ Mach 0,8 (988 km/h).

Thiết kế máy bay sẽ được đánh giá trong 6 tháng tới. Jetoptera hy vọng có thể vận hành phiên bản thử nghiệm trong năm 2025.

Thụy Điển phát triển thành công transistor bằng gỗ đầu tiên thế giới

Transistor bằng gỗ đầu tiên trên thế giới.

Ra đời cách đây gần 100 năm, transistor được một số nhà khoa học đánh giá là một trong những phát minh quan trọng nhất đối với nhân loại, ngang với điện thoại, bóng đèn hay xe đạp.

Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Linköping và Viện Công nghệ Hoàng gia Thụy Điển vừa công bố đã phát triển thành công transistor bằng gỗ đầu tiên trên thế giới.

Transistor bằng gỗ đầu tiên trên thế giới.
Transistor bằng gỗ đầu tiên trên thế giới. (Nguồn: PNSA).

Ra đời cách đây gần 100 năm, transistor được một số nhà khoa học đánh giá là một trong những phát minh quan trọng nhất đối với nhân loại, ngang với điện thoại, bóng đèn hay xe đạp. Là một loại linh kiện bán dẫn chủ động, thường được sử dụng như một phần tử khuếch đại hoặc một khóa điện tử, transistor ngày nay là một linh kiện then chốt trong các thiết bị điện tử hiện đại và được sản xuất ở cấp độ nano.

Nhật báo khoa học PNAS dẫn lời Giáo sư Isak Engquist, của Phòng thí nghiệm Điện tử hữu cơ, Đại học Linköping, cho biết: “Chúng tôi đã nghĩ tới một nguyên tắc chưa từng có. Phải, transistor bằng gỗ chậm và thô nặng hơn, nhưng nó hoạt động và có tiềm năng phát triển lớn”.

Trong các thử nghiệm trước đây, các transistor bằng gỗ chỉ có thể điều tiết việc truyền tải ion và khi các ion cạn kiệt thì các transistor cũng ngừng hoạt động. Tuy nhiên transistor do các nhà sáng chế Thụy Điển tạo ra lần này có thể hoạt động liên tục và điều tiết dòng điện mà không chịu hao mòn.

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng gỗ balsa (tên khoa học là Ochroma pyramidale, sinh trưởng tại Nam Mỹ và được coi là loại gỗ nhẹ nhất thế giới) để tạo ra transistor mới này, do công nghệ liên quan đòi hỏi một loại gỗ không hạt và có cấu trúc đồng nhất tại mọi góc độ.

Nhóm nghiên cứu loại bỏ lignin từ vật phẩm gỗ này và chỉ giữ lại các sợi celulo dài đều, với các ống dẫn được lấp đầu bằng một loại nhựa hay polymer dẫn điện có tên PEDOT:PSS, giúp chất liệu gỗ này có khả năng truyền dẫn điện.

Vật mẫu này được chứng minh có khả năng điều tiết dòng điện và hoạt động liên tục trong mức điện thế được chọn. Transistor bằng gỗ này cũng có thể bật và tắt nguồn cung điện, mặc dù với độ trễ đáng kể: nó đạt được trạng thái ngắt điện sau 1 giây và bật điện sau 5 giây.

Lợi thế lớn của transistor này là nó có thể chịu được dòng điện cao hơn so với các transistor hữu cơ thông thường, do đó có tiềm năng hữu ích trong nhiều ứng dụng đặc thù trong tương lai, ví dụ cho các hoạt động điều tiết tại các nhà máy điện.

Hàn Quốc nghiên cứu thành công kỹ thuật “chỉnh sửa đơn nguyên tử” đầu tiên trên thế giới

Trong hàng ngàn năm, nhân loại đã luôn phải đi đường vòng, sử dụng nhiều bước phản ứng chỉ để thay đổi một nguyên tử duy nhất trong một phân tử. Nhưng kể từ bây giờ, mọi chuyện sẽ thay đổi!

Hãy nhìn vào công thức hóa học của hai phân tử này. Chúng chỉ khác nhau đúng một nguyên tử.

Phía bên trái là Furan, một hợp chất hữu cơ thơm, dị vòng 5 nguyên tử, với một carbon (C) được thay thế bằng oxy (O). Đổi nguyên tử oxy này thành nitơ (N), bạn sẽ được Pyrrole – hợp chất ở bên phải:


Furan và Pyrrole.

Mặc dù chỉ là một nguyên tử cực kỳ nhỏ bé, điểm khác biệt này được coi là “chí mạng”.

Bởi Furan vốn là một chất độc, thậm chí có thể gây ung thư cho con người. Nhưng Pyrrole lại là một dược chất, được sử dụng làm thuốc chống ung thư, thuốc giảm đau và thuốc điều trị bệnh tim mạch.

Thật may mắn là bạn sẽ không thể nhầm được chúng với nhau, bởi cùng ở một điều kiện nhiệt độ và áp suất phòng, Furan là chất lỏng trong suốt, còn Pyrrole sẽ có màu đỏ (xin lỗi những giáo viên ra đề thi hóa chuyên làm mất nhãn dán). Nhưng đó là những gì mà chỉ một nguyên tử có thể thay đổi hoàn toàn tính chất của một hợp chất hóa học.

Đáng buồn là, việc thay đổi chỉ một nguyên tử của các hợp chất dị vòng này chưa bao giờ là điều dễ dàng. Ví dụ để tạo ra Pyrrole, bạn sẽ cần sử dụng đến phản ứng này:

Hoặc là phản ứng này:

Hoặc chí ít cũng là phản ứng này:

Có một cách để tạo ra Pyrrole trực tiếp từ Furan, là cho nó phản ứng với amoniac (NH3). Nhưng phản ứng này đòi hỏi nhiệt độ cao lên tới 500 độ C, cùng với sự có mặt của các chất xúc tác đắt tiền như SiO2 và Al2O3. Ngoài ra, hiệu suất phản ứng thấp khiến cho phương pháp tổng hợp Pyrrole này khó đạt được tính khả thi về mặt kinh tế.

Dẫu vậy, đó vẫn là cách mà loài người buộc phải sử dụng để sản xuất Pyrrole nói riêng và nhiều dược chất khác nói chung. Trong suốt hàng ngàn năm, kể từ thời đại của những nhà giả kim tới các phương pháp hóa học hiện đại, con người đã luôn phải đi đường vòng, sử dụng nhiều bước phản ứng chỉ để thay đổi một nguyên tử duy nhất trong một phân tử.

Nhưng kể bây giờ, mọi chuyện sẽ thay đổi!

Quá trình chỉnh sửa đơn nguyên tử từng là giấc mơ của các nhà hóa học.
Quá trình chỉnh sửa đơn nguyên tử từng là giấc mơ của các nhà hóa học.

Trong một nghiên cứu đột phá mới được đăng trên tạp chí Science, một nhóm các nhà khoa học đến từ Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Hàn Quốc (KAIST) cho biết họ đã phát triển thành công một kỹ thuật chỉnh sửa đơn nguyên tử đầu tiên trên thế giới, cho phép thay đổi trực tiếp một nguyên tử trong một phân tử.

Thử nghiệm phương pháp này với Furan, họ đã biến thành công hợp chất này thành Pyrrole, bằng cách thay thế nguyên tử oxy bằng nguyên tử nitơ, ngay tại nhiệt độ phòng và áp suất khí quyển. Quá trình chỉnh sửa đơn nguyên tử như vậy từng là giấc mơ của các nhà hóa học.

Thậm chí, nó còn được ví với “bàn tay của Chúa”, thứ có thể tạo ra các hợp chất phức tạp, bằng một phương pháp đơn giản, dễ dàng như lắp một mảnh Lego.

Giáo sư Yoonsu Park
Giáo sư Yoonsu Park, tác giả nghiên cứu đến từ Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Hàn Quốc (KAIST).

Giáo sư Yoonsu Park, tác giả nghiên cứu đến từ Viện KAIST cho biết: “Các hợp chất có vòng thơm có năng lượng ổn định cao đến mức việc thay đổi một nguyên tử này thành một nguyên tử khác từng được coi là điều bất khả thi”.

Để làm được điều đó, nhóm nghiên cứu của giáo sư Park đã sử dụng một chiến lược được gọi là “quang xúc tác”, nghĩa là lấy ánh sáng làm chất xúc tác cho phản ứng.

Bằng cách sử dụng chất xúc tác acridinium để bắn tia sáng xanh lam vào Furan, giáo sư Park đã tạm thời cắt được vòng thơm của nó, cho phép chèn một nhóm amin NH vào chung vị trí của nguyên tử O.

Sau đó, thông qua một quá trình ngưng tụ, hợp chất cuối cùng sẽ đẩy nguyên tử oxy ra ngoài, bắt cặp với hydro tạo thành nước (H2O), để lại duy nhất nguyên tử N trong vòng thơm tạo thành hợp chất Pyrrole.

Ở đây, chúng tôi đã trình bày một chiến lược quang xúc tác hoán đổi một nguyên tử oxy của furan với một nhóm nitơ, chuyển đổi trực tiếp furan thành một chất tương tự pyrrole trong một phản ứng liên phân tử duy nhất“, giáo sư Park cho biết.

Phản ứng mà các nhà khoa học Hàn Quốc đã sử dụng.
Phản ứng mà các nhà khoa học Hàn Quốc đã sử dụng.

Nhận xét về nghiên cứu mới, Mark Levin, một nhà hóa học hữu cơ tại Đại học Chicago, Hoa Kỳ, cho biết:

Các phương pháp hiện có cho loại phản ứng chuyển đổi vòng dị vòng này thường đòi hỏi các điều kiện khắc nghiệt, chẳng hạn như nhiệt độ cực cao hoặc bức xạ cực tím. Điều này làm hạn chế khả năng ứng dụng của chúng trong việc tổng hợp các hợp chất hữu cơ phức tạp, do năng suất sản phẩm thấp và phạm vi cơ chất hạn chế.

Phản ứng mới của các nhà nghiên cứu Hàn Quốc là giao thức đầu tiên cho phép chuyển đổi trực tiếp furan thành pyrrole trong điều kiện nhẹ nhàng hơn, khiến nó trở nên thực dụng hơn nhiều đối với nhiều ứng dụng trong hóa học tổng hợp”.

Dành riêng một bài viết trong chuyên mục “Góc nhìn”, chuyên mục mà tạp chí Science sẽ mời các nhà khoa học độc lập, nổi tiếng và có uy tín trong ngành để nhận xét về một nghiên cứu có tác động lớn hoặc mang tính cách mạng, hai nhà hóa học Ellie F. Plachinski và Tehshik P.Yoon đến từ Đại học Wisconsin-Madison, Hoa Kỳ, cho biết:

Các đặc tính của một phân tử hoạt tính sinh học phụ thuộc rất nhiều vào sự sắp xếp chính xác của các nguyên tử cấu thành của nó. Ví dụ, việc thay đổi danh tính của một nguyên tử đơn lẻ trong một vòng dị vòng-một vòng phân tử chứa ít nhất một nguyên tố không phải cacbon-có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của thuốc”.

Nghiên cứu này có tiềm năng rất mạnh mẽ trong việc tạo ra các quy trình tổng hợp hóa học liên tục, chuyển đổi các phân tử phức tạp và thúc đẩy các khám phá trong lĩnh vực dược phẩm“, Plachinski và Yoon nhấn mạnh.

Chỉnh sửa đơn nguyên tử có thể tạo ra vô số dược chất thêm vào dược điển cho con người.
Chỉnh sửa đơn nguyên tử có thể tạo ra vô số dược chất thêm vào dược điển cho con người.

Về phần mình, giáo sư Park nói: “Bước đột phá này đã cho phép chỉnh sửa có chọn lọc các cấu trúc vòng hữu cơ năm cạnh, thứ sẽ mở ra cánh cửa mới cho việc xây dựng thư viện các ứng viên thuốc tiềm năng, một thách thức quan trọng trong ngành dược phẩm. Tôi hy vọng công nghệ nền tảng này sẽ được sử dụng để cách mạng hóa các quy trình phát triển thuốc”.

Giống như Furan và Pyrrole, rất nhiều loại thuốc có cấu trúc hóa học rất phức tạp nhưng dược tính của chúng lại chỉ đến từ một nguyên tử duy nhất. Các nguyên tử như oxy và nitơ đóng vai trò trung tâm trong việc tăng cường tác dụng dược lý của các loại thuốc này, đặc biệt là tác dụng chống lại virus.

Nhóm nghiên cứu của giáo sư Park hiện đang thử nghiệm một loạt các quy trình tương tự để chỉnh sửa đơn nguyên tử nhiều hợp chất có gốc Furan và Pyrrole khác nhau. Công việc tiếp theo là thiết kế các lò phản ứng cỡ công nghiệp để thử nghiệm kỹ thuật trên quy mô lớn.

Nếu thành công với khả năng chỉnh sửa từng nguyên tử bên trong một phân tử, và trên quy mô công nghiệp, chúng ta sẽ có thể tạo ra bất cứ loại thuốc nào mà chúng ta muốn, với số lượng không hạn chế.

Ưu thế tuyệt đối của chip lượng tử ánh sáng: Rút ngắn 9.000 năm tính toán xuống còn 36 phần triệu giây

Máy tính lượng tử của Xanadu.

Sức mạnh của máy tính lượng tử ngày càng được khẳng định trong ngành công nghiệp điện toán. Mới đây nhất, những con chip máy tính nhanh nhất thế giới hiện nay đã bị một con chip lượng tử ánh sáng của các nhà nghiên cứu từ công ty Xanadu Quantum Technologies, tại Toronto, Canada đánh bại trong khả năng giải quyết một vấn đề hóc búa.

Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu, các siêu máy tính và những thuật toán hiện tại phải mất đến 9.000 năm để tính toán được bài toán này – thế nhưng con chip lượng tử Borealis của các nhà nghiên cứu hoàn thành nó chỉ trong 36 micro giây (mỗi micro giây bằng 1/1.000.000 giây).

Bài toán được các nhà nghiên cứu nói đến là việc lấy mẫu Boson Gaussian (GBS). Tác vụ này yêu cầu máy tính tạo ra một mẫu từ phân bố xác suất của các phép đo đơn photon ở đầu ra của mạch điện – và nếu bạn thấy nó thật vô nghĩa, thì quả đúng như vậy, vì ngay cả máy tính nhanh nhất thế giới cũng gần như không thể hiểu và tính toán được nó.

Máy tính lượng tử của Xanadu.
Máy tính lượng tử của Xanadu.

Tác vụ BGS có một số lợi thế nhất định khiến nó trở nên không phân biệt đối xử riêng cho các thiết lập lượng tử, vì vậy BGS đã trở thành một công cụ tiêu chuẩn để tính toán xem một máy tính lượng tử nhanh hơn bao nhiêu so với máy tính truyền thống.

Trong khi máy tính truyền thống sử dụng hệ nhị phân (0 và 1 đại diện cho tắt và bật), các máy tính lượng tử xử lý đến 3 đơn vị dữ liệu bằng các qubit (0, 1 và “cả hai”). Nhờ vậy chúng có tốc độ nhanh vượt trội khi có thể tính toán xác suất của từng giải pháp trước khi sử dụng nó. Trong khi đó, các máy tính truyền thống hiện nay phải chạy thử từng giải pháp để xác định xem nó là đúng hay sai.

Trong khi đó, con chip Borealis của các nhà nghiên cứu nói trên là một chip lượng tử ánh sáng, khi nó dùng các xung ánh sáng liên tục để truyền đi thông tin lượng tử. Ngay cả so với thế giới chip lượng tử đây cũng là một con quái vật thật sự về hiệu năng khi có đến 219 qubit, trong đó có 129 qubit được sử dụng cho nghiên cứu này.

Thiết kế dạng đám mây của Borealis giúp các nhà nghiên cứu có thể tiếp cận nó dễ dàng hơn.
Thiết kế dạng đám mây của Borealis giúp các nhà nghiên cứu có thể tiếp cận nó dễ dàng hơn.

Các nhà nghiên cứu tin rằng, chip lượng tử ánh sáng sẽ là kiến trúc được sử dụng nhiều nhất trong tương lai khi nó có khả năng mở rộng lớn hơn nhiều so với các giải pháp khác.

Chip Borealis tiên tiến hơn hẳn ở chỗ mỗi cổng lượng tử có thể lập trình được và cho dù các chip khác cũng được trang bị chức năng này, chúng vẫn chưa đạt được ưu thế lượng tử (có sức mạnh tính toán vượt trội hơn hẳn so với các máy tính truyền thống).

Các nhà nghiên cứu tin rằng công trình này là một cột mốc quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của máy tính lượng tử. “Công trình này là một cột mốc quan trọng trên con đường tạo ra một máy tính lượng tử đích thực, xác nhận các tính năng công nghệ chính của quang tử như một nền tảng cho mục tiêu này.”

Mặc dù tất cả đều cực kỳ hứa hẹn, đặc biệt là hiệu năng vô song của con chip lượng tử ánh sáng này, nhưng tác vụ GBS lại không có ứng dụng thực tế nào và việc tìm kiếm ứng dụng phổ biến trong thực tế dành cho chip lượng tử vào thời điểm hiện tại lại càng khó hơn. Ngay cả khi mới đây Bộ Quốc phòng Anh đã mua máy tính lượng tử đầu tiên để thử nghiệm, nhưng có thể còn nhiều năm nữa các máy tính như vậy mới được triển khai trên quy mô lớn.

Đó cũng là một phần lý do hãng Xanadu đang đưa sức mạnh tính toán của Borealis lên đám mây để các nhà nghiên cứu trên toàn cầu có thể tiếp cận nó dễ dàng hơn cũng như tạo ra các ứng dụng thực tế dựa trên sức mạnh phi thường của nó.

Con người đã có thể giao tiếp trong giấc mơ

Thành công trên là kết quả của gần 5 năm nghiên cứu nghiêm ngặt và phát triển công nghệ

Trong một thí nghiệm do Công ty phát triển công nghệ thần kinh REMspace tiến hành, 2 tình nguyện viên đã thành công giao tiếp trong giấc mơ của họ.

Hai tình nguyện viên có giấc mơ sáng suốt và trao đổi thông điệp đơn giản bằng thiết bị đặc biệt. Giấc mơ sáng suốt chỉ trạng thái nhận thức được mình đang mơ, xuất hiện ở giai đoạn ngủ mắt chuyển động nhanh (REM) và rất giàu ứng dụng tiềm năng – từ giải quyết vấn đề sinh lý đến học kỹ năng mới.

Thành công trên là kết quả của gần 5 năm nghiên cứu nghiêm ngặt và phát triển công nghệ
Thành công trên là kết quả của gần 5 năm nghiên cứu nghiêm ngặt và phát triển công nghệ.

REMspace đặt mục tiêu biến giai đoạn ngủ REM thành bước đột phá mang tính cách mạng tiếp theo sau trí tuệ nhân tạo (AI). Công ty khẳng định ngủ REM – không chịu giới hạn lẫn quy tắc vật lý như thực tế – cho phép mọi người tự do nhìn, nghe, chạm, ngửi, nếm, trải nghiệm khoái cảm và đau đớn, thậm chí thay đổi cơ thể hay giới tính của mình.

Thí nghiệm giao tiếp trong giấc mơ

Ở lần thí nghiệm ngày 24/9, tình nguyện viên ngủ tại nhà riêng. Sóng não cùng dữ liệu giấc ngủ của họ được theo dõi từ xa bởi thiết bị đặc biệt. Máy chủ khi phát hiện tình nguyện viên đầu tiên bước vào giấc mơ sáng suốt sẽ tạo ra một từ Remmyo (ngôn ngữ giấc ngủ) ngẫu nhiên rồi gửi qua tai nghe. Tình nguyện viên lặp lại từ này trong giấc mơ, máy chủ ghi lại phản hồi.

8 phút sau đó tình nguyện viên thứ hai bước vào giấc mơ sáng suốt và nhận được thông điệp lưu trữ của người trước – đánh dấu thí nghiệm thành công.

Thành công trên là kết quả của gần 5 năm nghiên cứu nghiêm ngặt và phát triển công nghệ. Sau lần thí nghiệm đầu tiên, REMspace đang nỗ lực cải tiến nhằm đạt kết quả tốt hơn ở những lần sau.

“Ngày trước, khái niệm “giao tiếp trong mơ” nghe như khoa học viễn tưởng, nhưng trong tương lai sẽ phổ biến đến mức chúng ta không thể tưởng tượng cuộc sống ra sao nếu thiếu công nghệ này”, theo Nhà sáng lập kiêm Giám đốc điều hành REMspace Michael Raduga. Công ty dự kiến vào năm sau tung ra thiết bị LucidMe PRO theo dõi điện não đồ, điện quang mắt, điện cơ đồ cũng như từng giai đoạn ngủ.

Thiết bị dính dưới nước lấy cảm hứng từ bạch tuộc

Trong thử nghiệm, thiết bị dính với phần thân cong, đàn hồi và lớp màng biến dạng có thể duy trì sức mạnh qua 100 chu kỳ.

Các nhà nghiên cứu phát triển thiết bị dính mới có thể hút và thả vật thể dưới nước với độ chính xác đáng kinh ngạc, Interesting Engineering hôm 10/10 đưa tin. Nghiên cứu mới xuất bản trên tạp chí Advanced Science.

(Video: Chanhong Lee/Michael Bartlett/Virginia Tech).

“Tôi bị thu hút bởi cách bạch tuộc giữ chặt một vật thể trong chốc lát, rồi thả ra ngay lập tức. Chúng làm điều này dưới nước, với những vật sần sùi, cong và không đều – điều đó thật ấn tượng”, Michael Bartlett, chuyên gia tại Đại học Bách khoa Virginia, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết.

Các nhà khoa học quan sát phần ngoài cùng của giác hút bạch tuộc gọi là phễu. Giác hút này giống như những bàn tay co giãn có thể nắm lấy bất cứ thứ gì. Chúng cấu tạo từ mô sống, có thể điều chỉnh hình dạng và sức mạnh sao cho phù hợp với từng vật thể. Điều này đồng nghĩa, chúng có thể giữ chặt những vật có kết cấu và hình dạng khác nhau.

Trong nghiên cứu mới, nhóm chuyên gia phát triển thiết bị dính đa bề mặt với phần thân cong, đàn hồi và lớp màng có thể biến dạng. Thiết bị dính được những bề mặt gồ ghề, cong, không đều trong các môi trường chất lỏng khác nhau với sức mạnh ấn tượng.

“Khi được kích hoạt, thiết bị dính lấy cảm hứng từ bạch tuộc sẽ mạnh hơn 1.000 lần so với khi ở trạng thái thả lỏng. Điều quan trọng là sự chuyển đổi này diễn ra chỉ trong một phần nhỏ giây, khoảng 30 mili giây”, nhóm nghiên cứu cho biết.


Thiết bị dính dưới nước.

Theo nhóm nhà khoa học, thiết bị đã thể hiện khả năng dính đáng tin cậy qua nhiều lần sử dụng và trong thời gian dài. Trong thử nghiệm, nó duy trì sức mạnh qua 100 chu kỳ, thậm chí giữ một viên đá sần sùi dưới nước hơn 7 ngày rồi thả ra theo lệnh. Sự bền bỉ này đặc biệt quan trọng với những tình huống cần giữ vật thể dưới nước trong thời gian dài, ví dụ như khi công nhân trục vớt một vật bị chìm.

Trước đó, giáo sư Bartlett đã phát triển Octa-Glove, găng tay dính lấy cảm hứng từ bạch tuộc. Găng tay trang bị cảm biến LIDAR để phát hiện và nhẹ nhàng dính lấy những vật dưới nước. Ứng dụng tiềm năng của Octa-Glove bao gồm lặn cứu hộ, khảo cổ dưới nước, các công nghệ hỗ trợ người dùng và chăm sóc sức khỏe. “Chúng tôi hy vọng có thể sử dụng thiết bị dính mới để cải tiến thêm Octa-Glove”, Bartlett chia sẻ.

Trung Quốc lại khiến cả thế giới phải ngỡ ngàng khi cho robot hình người Star1 chạy đua qua sa mạc Gobi

Robot Star1

Vài tháng trước, công ty Robot Era có trụ sở tại Trung Quốc đã khiến thế giới chú ý khi giới thiệu robot hình người XBot-L với khả năng đi dạo trên Vạn Lý Trường Thành. Mới đây, công ty tiếp tục thu hút sự quan tâm khi phát hành đoạn video ghi lại cuộc chạy đua đầy ấn tượng của hai mẫu robot Star1 qua sa mạc Gobi, một trong những vùng đất khắc nghiệt nhất hành tinh.

Robot Era là một cái tên khá mới mẻ trong lĩnh vực chế tạo robot hình người. Công ty được thành lập vào tháng 8/2023, ươm tạo từ Đại học Thanh Hoa – một trong những trường đại học hàng đầu Trung Quốc về công nghệ. Dù mới xuất hiện nhưng Robot Era đã nhanh chóng gây dựng danh tiếng nhờ vào các thiết kế robot thông minh, với bàn tay khéo léo giống con người và khả năng sáng tạo trong các video quảng cáo mang tính giải trí cao.

Trong lần thử nghiệm mới nhất, công ty đã quyết định thử thách hai robot hình người Star1 tại sa mạc Gobi. Đoạn phim được quay vào cuối tháng trước ghi lại hình ảnh hai robot đua trên những cung đường gồ ghề và khung cảnh hùng vĩ của Gobi, một trong những địa hình khó khăn nhất thế giới.

Mẫu robot hình người Star1 là sản phẩm mới nhất và tiên tiến nhất của Robot Era. Mặc dù thông tin về Star1 vẫn còn hạn chế và chúng ta mới chỉ biết được rằng mỗi robot cao 1,71 mét và nặng khoảng 65 kg. Điểm nổi bật của Star1 là khả năng chạy với tốc độ ấn tượng và giữ thăng bằng tốt trên các địa hình phức tạp. Trong cuộc đua, chúng ta có thể thấy được rằng một robot chạy “chân trần” trong khi robot còn lại mang giày thể thao đặc chế, mang lại sự hỗ trợ cho các khớp chân trong quá trình di chuyển.

Phong cách chạy của Star1 khá độc đáo, với cơ thể luôn giữ thẳng trong khi các chân khớp linh hoạt đẩy về phía trước. Tốc độ của robot trong cuộc đua được ghi nhận là 3,6 mét mỗi giây, và cuộc đua kéo dài liên tục 34 phút. Đây là một minh chứng cho độ bền và sự ổn định của thiết kế.

Robot Star1
Robot Era là một công ty công nghệ nổi bật tại Trung Quốc, chuyên về nghiên cứu và phát triển các loại robot. Được hậu thuẫn bởi Viện Khoa học Thông tin Liên ngành – Đại học Thanh Hoa, một trong những trường đại học hàng đầu Trung Quốc, Robot Era đã nhanh chóng khẳng định vị thế của mình trong ngành công nghiệp robot đang phát triển mạnh mẽ.

Sự thành công của Star1 không chỉ đến từ thiết kế ngoại hình mà còn từ hệ thống động cơ và công nghệ điện toán AI vượt trội. Cả hai robot tham gia cuộc đua đều được trang bị động cơ 400 Nm (295 lb.ft), cùng với “bộ giảm tốc hành tinh chính xác, bộ mã hóa và trình điều khiển có độ chính xác cao”. Điều này giúp Star1 không chỉ có thể di chuyển linh hoạt mà còn thích nghi tốt với nhiều loại địa hình khác nhau.

Ngoài ra, khả năng nhận thức và xử lý môi trường xung quanh của Star1 đến từ hệ thống AI tiên tiến với điện toán lên đến 275 TOPS (Tera-Operations Per Second). Đây là yếu tố quan trọng giúp các robot có thể phản ứng nhanh chóng với các thay đổi trong môi trường và duy trì hiệu suất hoạt động tối ưu.

Bên cạnh robot hình người, Robot Era còn phát triển các sản phẩm khác
Sự hợp tác chặt chẽ với Viện Khoa học Thông tin Liên ngành – Đại học Thanh Hoa giúp Robot Era tiếp cận nguồn nhân lực chất lượng cao và những công nghệ tiên tiến nhất. Bên cạnh robot hình người, Robot Era còn phát triển các sản phẩm khác như bàn tay robot XHand, có khả năng thực hiện các nhiệm vụ phức tạp như cầm nắm đồ vật.

Robot Era không chỉ dừng lại ở những cuộc thử nghiệm thú vị. Công ty tuyên bố rằng những lần chạy thử nghiệm như vậy sẽ mở đường cho việc triển khai các robot hình người trong nhiều tình huống thực tiễn khác nhau. Mục tiêu của họ là mang các robot được hỗ trợ bởi trí tuệ nhân tạo vào hộ gia đình và nơi làm việc, nơi mà chúng có thể thực hiện những công việc thường ngày với độ chính xác cao.

Cạnh tranh trong lĩnh vực robot hình người đang trở nên khốc liệt, khi nhiều công ty lớn như Tesla, Figure, Unitree và Fourier cũng đã gia nhập cuộc đua này. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng và những thành tựu bước đầu, Robot Era và Star1 đang nổi lên như một đối thủ đáng gờm trên thị trường.

Robot Star1 đua qua sa mạc Gobi
Robot Era hướng tới mục tiêu trở thành một trong những công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực robot, góp phần thúc đẩy quá trình tự động hóa và nâng cao hiệu quả sản xuất.

Sự kiện hai robot Star1 đua qua sa mạc Gobi không chỉ là một chiến dịch quảng bá sản phẩm đơn thuần mà còn là lời tuyên bố về khả năng thực tiễn và tiềm năng của công nghệ robot hình người. Trong bối cảnh công nghệ AI và robot phát triển mạnh mẽ, chúng ta có thể kỳ vọng vào những bước tiến xa hơn của Robot Era trong thời gian tới, mở ra một kỷ nguyên mới cho việc tích hợp robot vào đời sống hàng ngày.

Một vài thành tựu đáng chú ý trước đó của Robot Era

XBot-L, robot hình người leo Vạn Lý Trường Thành: Đây là một trong những thành tựu nổi bật nhất của Robot Era, XBot-L nổi bật ở khả năng xử lý các bề mặt khó đoán trên Vạn Lý Trường Thành và hệ thống điều hướng ở những khu vực thiếu ánh sáng – vốn gây khó khăn cho các robot khác.

Bàn tay robot XHand: Được phát triển dựa trên nền tảng nghiên cứu khoa học hiện đại và công nghệ sản xuất tiên tiến, XHand đã tạo nên một bước đột phá trong lĩnh vực robot, đặc biệt là trong việc mô phỏng các chuyển động phức tạp của bàn tay con người.

Siêu du thuyền hình kim tự tháp lơ lửng trên biển

Jonathan Schwinge là một cái tên nổi bật trong giới thiết kế cao cấp, với tầm ảnh hưởng trải rộng từ kiến trúc, thiết kế nội thất cho đến… tàu cánh ngầm siêu du thuyền hình kim tự tháp. Một trong những sáng tạo nổi bật nhất của ông, được công bố vào năm 2010, là thiết kế táo bạo của chiếc siêu du thuyền Tetrahedron Super Yacht (gọi tắt là Tetra), có hình dạng kim tự tháp đặc trưng, đem lại cảm giác như một công trình nghệ thuật bay lơ lửng trên mặt nước.

Với cấu trúc hình kim tự tháp lơ lửng sát mặt nước, chiếc siêu du thuyền hạng sang tân tiến do kỹ sư người Anh thiết kế hứa hẹn đem đến trải nghiệm giống như một con tàu vũ trụ.


Theo Design Boom, siêu du thuyền Tetrahedron được thiết kế theo hướng hàng không trên biển, khiến nó trở nên khác biệt với những du thuyền truyền thống. Du thuyền có thể bay lơ lửng nhờ một thanh giằng thẳng đứng gắn với phần thân hình ngư lôi chìm dưới nước.


Hình ảnh đồ họa của du thuyền do kỹ sư người Anh, Jonathan Schwinge, thiết kế cho thấy boong tắm nắng rộng rãi, khu vực ăn tối ngoài trời, khu vui chơi dưới nước và một dãy bậc thang đi xuống biển có thể rút gọn. Làm từ sợi carbon và thép không gỉ hai lớp, Tetrahedron có thể chở 6 hành khách và 4 thủy thủ đoàn. Du thuyền hình kim tự tháp này dài 21,6m, có 4 mặt và 6 cạnh.


Tốc độ di chuyển của du thuyền khi ở phía trên mặt nước là 70km/h và tốc độ nâng khỏi mặt nước là 27,7km/h. Tetrahedron có tầm hoạt động lên đến 3.000 hải lý. Nhờ thiết kế độc đáo giúp kiểm soát tốt sự rung lắc và nhấp nhô, du thuyền có thể chạy êm khi biển động, theo Schwinge.


Ở tốc độ thấp, du thuyền chạy trên ba cột nhô ra bên dưới thân. Khi di chuyển với tốc độ cao, phần thân hình kim tự tháp được nâng khỏi mặt nước nhờ các cánh thủy lực quay trên cột chính giữa.


“Thiết kế ra đời với ý tưởng biến hình dáng, cấu trúc và lực đẩy của siêu du thuyền hiện đại thành một môi trường khép kín có chế độ bay trên mặt nước”, Schwinge chia sẻ.


Theo Schwinge, du thuyền có thể di chuyển trên quãng đường dài nhờ lực cản giảm đi khi phần thân ở trên mặt nước và sóng biển không thể va đập vào mạn du thuyền trong điều kiện giông bão.

Schwinge không chỉ dừng lại ở việc tạo ra một hình dáng mới lạ; ông còn hướng tới việc cách mạng hóa cả cách thức du thuyền vận hành. Thiết kế này không chỉ nhằm mục đích thu hút sự chú ý của các tỷ phú thích sưu tầm những sản phẩm độc đáo, mà còn thách thức các quy tắc cơ bản của thiết kế tàu thuyền thông thường. Với công nghệ hiện đại và vật liệu tiên tiến, Tetra hứa hẹn sẽ mang đến trải nghiệm du thuyền hoàn toàn mới.