Lưu trữ thẻ: sáng chế

Những phát minh kỳ dị, khó hiểu của người xưa

Chiếc cũi bằng lồng kim loại

Vào những năm 1900, một số nhà sáng chế cho ra đời những phát minh “dị nhất quả đất”. Dù mục đích của họ là giúp cuộc sống của con người tốt đẹp hơn nhưng tính ứng dụng thực tế không cao.

Chiếc cũi bằng lồng kim loại
Năm 1937, một số gia đình ở London, Anh lắp đặt một chiếc cũi bằng lồng kim loại treo ở ngoài cửa sổ một tòa nhà cao tầng. Đứa trẻ nằm trong chiếc cũi đặc biệt này để hít thể khí trời và sưởi nắng. Không phải phụ huynh nào cũng đủ dũng cảm sử dụng phát minh “dị nhất quả đất” này.

Ván lướt có trang bị động cơ.
Vào năm 1948, Joe Gilpin giới thiệu tới công chúng ván lướt có trang bị động cơ. Nhờ sáng chế kỳ quái này, người đàn ông mặc vest lịch lãm, vừa hút thuốc và lướt ván trên hồ nước.

Một phát minh súng máy kỳ quái với phần nòng cong.
Một phát minh súng máy kỳ quái với phần nòng cong. Nhiều người đánh giá khi sử dụng vũ khí này sẽ không bắn trúng mục tiêu do viên đạn sẽ bay lệch mục tiêu. Thậm chí, nó có thể gây nguy hiểm cho người dùng.

Thiết bị giúp quý ông hút thuốc trong những ngày mưa.
Robert L. Stern sáng chế ra thiết bị giúp quý ông hút thuốc trong những ngày mưa. Theo đó, một chiếc ô nhỏ xíu ở phía trên giúp điếu thuốc không bị tắt. Tuy nhiên, nhiều người hoài nghi hiệu quả thực tế của nó.

Thiết bị giúp người dùng hút hàng chục điếu thuốc lá cùng lúc.
Vào những năm 1950, một sáng chế kỳ quái ra đời là thiết bị giúp người dùng hút hàng chục điếu thuốc lá cùng lúc.

Bánh xe phát sáng
Bánh xe phát sáng
ra đời năm 1961. Khi di chuyển vào buổi tối, những bóng đèn trong vành xe sẽ khiến chiếc xe trở nên nổi bật.

Phòng tắm hơi nhỏ gọn
Phòng tắm hơi nhỏ gọn
xuất hiện ở Phần Lan năm 1962. Mọi người có thể dễ dàng mang nó đi khắp nơi.

Mũ tắm đặc biệt
Vào năm 1970, mũ tắm đặc biệt ra đời sẽ giúp người dùng không bị ướt tóc khi sử dụng vòi hoa sen tắm.

Máy cuộn spagetti
Nhà phát minh người Pháp Alain Dham cho ra đời máy cuộn Spaghetti năm 1968. Nó có thể tự động quấn mì giúp người dùng thưởng thức món ăn này dễ dàng hơn.

Tẩu hút thuốc đôi
Tẩu hút thuốc đôi
xuất hiện ở Mỹ năm 1949. Nhờ phát minh quái dị này, 2 người đàn ông có thể hút thuốc cùng lúc.

Những phát minh thú vị nhất của NASA, tưởng xa vời mà ai cũng thường sử dụng

Nệm foam hoạt tính

Bạn không cần phải là một phi hành gia để tận hưởng những điều thú vị mà NASA đã phát minh ra.

Cơ quan Quản lý Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Mỹ (NASA) thường được biết tới với các dự án như tạo ra những hệ thống kính thiên văn đầy tham vọng có thể nhìn thấy thời điểm bắt đầu của vụ trụ, hay đưa con người lên mặt trăng rồi quay trở lại. Nhưng, ít ai biết rằng nó cũng chịu trách nhiệm cho các sản phẩm như áo tắm, Công Nghệ phẫu thuật mắt và cách bạn chụp ảnh tự sướng.

Các sản phẩm hàng ngày được liệt kê dưới đây chỉ là 15 trong số hơn 2.000 sản phẩm tiêu dùng đến từ các chương trình vũ trụ của NASA. Tất cả đều dựa trên Công Nghệ và khám phá do NASA trực tiếp phát triển, hợp tác với NASA hoặc thông qua tài trợ của NASA.

Nệm foam hoạt tính

Nếu nệm, gối, đi văng, sofa hoặc bất cứ thứ gì của bạn có chứa foam hoạt tính, hay còn gọi là “đệm nhớ” do khả năng trở lại hình dạng ban đầu sau khi sử dụng, thì bạn có thể cảm ơn NASA. Vật liệu này được phát triển bởi kỹ sư hàng không Charles Yost do NASA tài trợ và ban đầu được sử dụng để tạo ra những chiếc ghế máy bay có thể hấp thụ va chạm tốt hơn cho các phi công trong nhiều thử nghiệm.

Chuột máy tính cổ điển

Chuột máy tính được phát minh tại Đại học Stanford vào đầu những năm 1960 bởi Doug Englebart, dựa trên một nghiên cứu về đầu vào máy tính tương tác được NASA tài trợ. Nghiên cứu này được thực hiện bởi chuyên gia về khoa học máy tính có tên Bob Taylor của NASA.

Nhiệt kế hồng ngoại

Nếu bạn từng kiểm tra nhiệt độ của mình bằng nhiệt kế hồng ngoại, thì hãy nhớ rằng bạn sẽ không thể làm được điều đó nếu không có NASA. Cơ quan vũ trụ Mỹ đã phát triển các nhiệt kế hồng ngoại để đo nhiệt độ của vật thể vũ trụ ở xa, và Công Nghệ này cuối cùng đã tìm ra cách để xuất hiện trong các ngôi nhà, thông qua việc trở thành bộ phận quan trọng của nhiệt kế gia đình.

Đồ bơi hiệu suất cao

Hầu hết chúng ta không thường xuyên mặc đồ bơi hiệu suất cao, nhưng những vận động viên bơi lội như Michael Phelps thì sử dụng chúng một cách thường xuyên. Bộ đồ bơi LZR Racer của Speedo – trang phục được lựa chọn cho những vận động viên bơi lội ưu tú – ra mắt vào năm 2008 và có các đặc tính động lực học dưới nước độc đáo đã ra đời sau quá trình thử nghiệm trong đường hầm gió tại Trung tâm Nghiên cứu Langley của NASA.

Máy ảnh điện thoại dị động

Các cảm biến hình ảnh được sử dụng trong hầu hết các máy ảnh kỹ thuật số hiện đại có nguồn gốc trực tiếp từ NASA. Eric Fossum, một nhân viên của Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA, là người đầu tiên sử dụng Công Nghệ CMOS trong máy ảnh. Mục tiêu ban đầu là tạo ra một hệ thống camera tốt hơn, rẻ hơn và hiệu quả hơn cho tàu vũ trụ, nhưng Công Nghệ này nhanh chóng được phổ biến trên toàn thế giới.

Ô tô tự lái

Chúng ta có thể được sử dụng Công Nghệ này một cách phổ biến hơn trong tương lai gần nhờ nhóm Công nghệ và Khoa học Lượng tử của Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA, với các dự án bắt đầu vào những năm 1980. Trong số các phát minh của họ có một thứ sở hữu cái tên đầy gợi cảm là “bộ cộng hưởng quang học chế độ thì thầm trong thư viện”. Đó là một bộ cộng hưởng hình cầu cho sóng ánh sáng. Cho đến gần đây, Công Nghệ này mới được sử dụng trong thực tế, khi nó được tích hợp vào hệ thống LiDAR dành cho ô tô tự lái.

Phẫu thuật Lasik

Trong một nỗ lực để xác định việc thiếu trọng lực ảnh hưởng đến chuyển động của mắt như thế nào, NASA đã tiến hành một loạt thí nghiệm trên Trạm Vũ trụ Quốc tế vào giữa những năm 2000. Kết quả mang lại không hữu ích cho lắm, nhưng Công Nghệ theo dõi mắt được phát triển dựa trên nó đã giúp ích rất lớn cho các thí nghiệm sau đó, giúp các ca phẫu thuật điều chỉnh thị lực LASIK có thể thực hiện được.

tròng kính chống xước

Đã có nhiều loại mắt kính chống xước ra đời, nhưng không có thứ gì tốt bằng Công Nghệ trên dòng kính Survivor của Ray-Ban, bởi nó được cấp phép Công Nghệ từ NASA. NASA đã đi tiên phong trong việc phủ các màn hình dụng cụ nhạy cảm bằng một loại carbon giống kim cương để làm cho chúng có khả năng chống xước gấp 10 lần so với các phương pháp khác. Điều này có thể là hơi quá mức cần thiết đối với kính râm, nhưng nó vẫn khá tuyệt vời.

Hệ thống kiểm soát không lưu

Cục Hàng không Liên bang Mỹ và NASA gần đây đã hoàn thành việc phát triển một hệ thống cải tiến để quản lý các chuyến bay trên mặt đất. Nó có tên gọi tắt là IADS (Integrated Arrival, Departure, and Surface (IADS)) hiện đã được thiết lập tại 27 sân bay bận rộn nhất của Mỹ.

Mặt đường có rãnh

Ngay cả khi bạn không nhận thấy, toàn bộ thế giới đã bớt trơn trượt hơn nhờ có NASA. Cụ thể, các nhà nghiên cứu của NASA đã chứng minh rằng việc cắt các rãnh mỏng trên đường băng bê tông để tạo ra các kênh dẫn nước thừa thoát ra ngoài làm giảm nguy cơ tai nạn do trơn trượt tại sân bay. Kết quả là, hàng trăm sân bay thương mại trên khắp thế giới đã được bố trí rãnh an toàn, sau đó thậm chí cả trên đường cao tốc. Quy trình tạo rãnh an toàn cũng đã được áp dụng cho các đường cong và cầu vượt, sau đó là lối đi dành cho người đi bộ, đường dốc và bậc tam cấp, rồi tới các nhà máy chế biến thực phẩm và chuồng gia súc.

Công nghệ này cũng đã được chứng minh là có khả năng khôi phục hiệu suất ma sát ướt đối với bề mặt đường mòn hoặc nhẵn và kéo dài tuổi thọ của chúng từ 5 đến 10 năm, giúp tiết kiệm đáng kể chi phí bảo trì.

Chăn cứu hộ khẩn cấp

Những chiếc chăn cứu hộ mỏng dính được đóng gói trong bộ dụng cụ sơ cứu và thường được phát khi kết thúc các cuộc chạy marathon được NASA phát triển vào năm 1964. Vật liệu của nó được tạo ra bằng cách cho nhôm bốc hơi lên bề mặt nhựa mỏng và hiện được sử dụng trong việc cắm trại, tấm chắn nắng, kính viễn vọng không gian… Như một tấm chắn, nó phản xạ nhiệt trở lại cho bất kỳ ai hoặc thứ gì được quấn trong đó.

Giày Nike Air

Đôi giày thể thao này là sản phẩm chứa đựng tới hai cải tiến của NASA. Quá trình đúc cao su cứng của giày thể thao được thực hiện thông qua Công Nghệ “đúc cao su thổi”, một quy trình tiên phong tại NASA để sản xuất mũ bảo hiểm. Còn vật liệu hấp thụ sốc được sử dụng trong Nike Air đến từ kỹ sư Frank Rudy của NASA.

Sữa công thức

Trong khi nghiên cứu các chiến lược dinh dưỡng cho những chuyến du hành tới sao Hỏa trong tương lai, các nhà khoa học NASA đã phát hiện ra nguồn tự nhiên cho một loại axit béo omega-3 trước đây chỉ có trong sữa mẹ. Thành phần này hiện được sử dụng trong hầu hết các loại sữa công thức dành cho trẻ em trên thị trường.

Máy hút bụi không dây

Hãng Black and Decker đã hợp tác chặt chẽ với NASA trong những năm 1960 để sản xuất máy khoan không dây, búa và các công cụ khác để tạo ra các sản phẩm có thể hoạt động trong môi trường trọng lực thấp (hoặc không trọng lực). Và giờ đây, bạn có thể thấy Công Nghệ này trong hàng loạt máy hút bụi không dây trên thị trường.

Lọc nước

Mặc dù các bộ lọc nước cơ bản đã tồn tại từ giữa những năm 1950, nhưng phải đến khi NASA bơm tài nguyên vào nghiên cứu của mình cho chương trình Apollo vào năm 1963 thì các hệ thống lọc hiện đại mới bắt đầu xuất hiện. NASA đã dẫn đầu nghiên cứu về lĩnh vực này vì họ cần một lượng lớn nước sạch lưu trữ thời gian dài trong điều kiện khắc nghiệt bên ngoài không gian.

Để đạt được mục tiêu này, NASA đã phát triển một hệ thống hoạt động bằng cách sử dụng khả năng hấp thụ các chất ô nhiễm và hạt vật chất có trong nước khi được xử lý đặc biệt với than củi. Phương pháp xử lý này – về cơ bản là một quá trình oxy hóa mở ra hàng triệu lỗ chân lông nhỏ giữa các nguyên tử cacbon trong than củi – khuếch đại khả năng hấp thụ của than củi, với diện tích bề mặt xốp, lớn đã tạo ra nhiều vị trí để các chất ô nhiễm liên kết hóa học với nó thông qua lực hút. Điều này làm cho nước thu được không có tạp chất.

Bộ vi xử lý - Microprocessor

Về mặt kỹ thuật, NASA không phát minh ra mạch tích hợp, thay vào đó phát minh này xuất hiện vào năm 1958 bởi kỹ sư điện Jack Kilby, tuy nhiên NASA đã phát minh ra các biến thể mới hơn và tiên tiến hơn của mạch tích hợp.

Chương trình Apollo của NASA đã khởi động cuộc cách mạng vi mạch, với việc chính phủ Hoa Kỳ đã thu mua hơn 60% mạch tích hợp trong nước những năm 1960.

Một trong những ứng dụng cao cấp đầu tiên của Công Nghệ vi mạch là trong máy tính hướng dẫn Apollo với giao diện DSKY, được sử dụng để cung cấp khả năng tính toán và điều khiển trên tàu để điều hướng, cũng như điều khiển mô-đun chỉ huy và mô-đun Mặt Trăng.

Ngày nay, các mạch tích hợp có thể được tìm thấy trong hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ điện thoại di động và máy tính cá nhân đến lò vi sóng – điều này chủ yếu nhờ vào quá trình xử lý và sản xuất vi mạch rẻ tiền từ Chương trình Apollo của NASA.

Mũ bảo hiểm

Vào những năm 1970 , NASA đã phát minh ra bọt ủ, một vật liệu hấp thụ sốc được thiết kế để cải thiện độ an toàn của đệm máy bay. Loại bọt ủ này sau đó được trang bị cho mũ bảo hiểm và ghế ngồi của tàu vũ trụ Apollo, đây là một lớp lót giúp giảm thiểu một số lực cực đoan mà các phi hành gia sẽ phải chịu.

Bọt ủ là một loại polyurethane được xử lý bằng các Hóa Chất bổ sung có cả độ nhớt và mật độ cao, các đặc tính lý tưởng để hấp thụ các tác động đáng kể và chống lại dòng năng lượng. Bọt có tính đàn hồi nhớt và nhạy cảm với nhiệt độ, nghĩa là khi được ép vào nguồn nhiệt, nó có thể tạo ra hình dáng theo khuôn.

Loại bọt ủ ban đầu được tùy biến thành bọt xốp cách nhiệt và được tung ra thị trường vào đầu những năm 1980, sau đó nó nhanh chóng được sử dụng trong các thiết bị y tế như nệm xốp cách nhiệt và dụng cụ thể thao như mũ bảo hiểm bóng bầu dục Mỹ và mũ bảo hiểm xe máy, xe đạp.

Truyền hình vệ tinh

Có lẽ không có gì ngạc nhiên khi Nasa cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát minh ra truyền hình vệ tinh. Vệ tinh đầu tiên có khả năng chuyển tiếp tín hiệu TV là Telstar 1, được cơ quan này phóng vào năm 1962.

Nó bắt đầu như một dự án hợp tác giữa Phòng thí nghiệm Bell để phát triển một hệ thống liên lạc vệ tinh thử nghiệm trên Đại Tây Dương. Sau đó, Nasa tiếp tục phát triển Công Nghệ này nhằm tạo ra các hệ thống tiên tiến hơn để giảm tiếng ồn và lỗi trong tín hiệu được truyền, dẫn đến khả năng truyền video và âm thanh độ nét cao.

Những phát minh thay đổi thế giới trong năm Giáp Thìn

Phiên bản máy tính để bàn đầu tiên

Nhiều phát minh đột phá trên các lĩnh vực khác nhau đã xuất hiện trong lịch sử những năm Giáp Thìn.

P101, chiếc máy tính để bàn đầu tiên trong lịch sử, được ra mắt tại Hội chợ Thế giới New York (Mỹ) năm Giáp Thìn (1964).

Phiên bản máy tính để bàn đầu tiên
Phiên bản máy tính để bàn đầu tiên.

Chiếc máy do Pier Giorgio Perotto, nhà tiên phong về điện tử người Ý, thiết kế. Kích thước của máy là 275 x 465 x 610 (mm), nặng 35,5kg, tiêu thụ 0,35kW điện.

Phần cứng của máy bao gồm các thiết bị rời rạc, bao gồm bóng bán dẫn, diode, điện trở và tụ điện được gắn trên các cụm thẻ mạch nhựa phenolic.

Máy có bộ nhớ thông tin 240 byte, rất nhỏ so với các máy thời bấy giờ nhưng đã là bước ngoặt ở thời điểm đó.

Máy có thể thực hiện các phép toán cộng, trừ, nhân, chia, căn bậc hai và giá trị tuyệt đối, cho kết quả chính xác đến 22 chữ số và tối đa 15 chữ số thập phân.

Dữ liệu được ghi trong các thẻ nhựa và có thể xuất ra giấy in 9cm.

Dù là sản phẩm đầu tiên được trưng bày tại hội chợ nhưng ngay sau đó 40.000 chiếc đã được bán. 90% thị phần là ở Mỹ, mỗi máy có giá 3.200 USD.

NASA đã mua loại máy tính này để lập kế hoạch và tính toán quỹ đạo của các chương trình không gian, bao gồm cả sứ mệnh Apollo 11 đưa con người lên Mặt trăng.

Các ống chân không đầu tiên của John A. Fleming.
Các ống chân không đầu tiên của John A. Fleming.

Năm 1904, John A. Fleming thuộc Đại học London (Anh) phát minh ra ống diode chân không. Các diode chân không này có thể dẫn điện theo một hướng, điều chỉnh dòng điện xoay chiều hoặc phát hiện tín hiệu.

Phát minh ống chân không thường được coi là sự khởi đầu của thiết bị điện tử. Phiên bản do Fleming sáng chế còn khá sơ khai, chứa một cực âm phát điện tử được làm nóng và một cực dương. Các electron di chuyển theo một hướng xuyên qua thiết bị, từ cực âm đến cực dương.

Thiết bị sau đó được cải tiến để trở thành phần chính trong mạch điện tử nửa đầu thế kỷ 20.

Diode của Fleming được sử dụng trong các máy thu sóng vô tuyến, đóng vai trò quan trọng cho phát triển đài phát thanh, truyền hình, radar… suốt nhiều thập kỷ cho tới khi nhường chỗ cho Công Nghệ điện tử trạng thái rắn.

Tàu ngầm Aigrette của Pháp được hạ thủy năm Giáp Thìn
Tàu ngầm Aigrette của Pháp được hạ thủy năm Giáp Thìn.

Cũng trong năm 1904, chiếc tàu ngầm Aigrette chạy bằng diesel đầu tiên trên thế giới chính thức được hạ thủy. Chiếc tàu do Pháp sản xuất này có lượng giãn nước khi nổi là 181 tấn và lượng giãn nước khi lặn là 257 tấn.

Chiều dài của tàu là 35,9m, ngang 4,04m và độ sâu của mớn nước là 2,63m. Tàu có một trục duy nhất được dẫn động bởi một động cơ diesel 150 mã lực và một động cơ điện 130 mã lực.

Tốc độ tối đa của tàu là 17,2km/h trên mặt nước và 11,5km/h khi lặn.

Tàu được trang bị hai bệ phóng ngư lôi Drzewiecki 450mm và hai ngư lôi 450mm đặt trong giá đỡ bên ngoài.

Aigrette được đặt hàng vào ngày 13-5-1902, hạ thủy vào tháng 2-1904 và đưa vào hoạt động năm 1908.

Trong Thế chiến thứ nhất, Aigrette phục vụ ở các vị trí phòng thủ ở Brest và ở Cherbourg (Pháp). Aigrette ngừng hoạt động vào tháng 11-1919 và bị bán làm đồ tái chế tháng 4-1920.

Một phần trong hệ thống truyền mã Morse đầu tiên
Một phần trong hệ thống truyền mã Morse đầu tiên – (Ảnh: BRITANNICA).

Điện tín có đặc điểm là truyền tin qua khoảng cách xa bằng tín hiệu mã hóa. Hình thức này được dùng nhiều cho liên lạc trong ngành hàng hải và hàng không.

Sự ra đời điện tín có mối quan hệ mật thiết với sự hình thành của mã Morse. Mã Morse được đặt tên theo nhà phát minh Samuel F.B. Morse, người dùng cách mã hóa văn bản ký tự thành dấu chấm và dấu gạch ngang cho truyền tín hiệu.

Ngày 24-5-1844, trước các quan chức chính phủ ở thủ đô Washington (Mỹ), Samuel Morse trình diễn bức điện tín đầu tiên, gửi đến trợ lý Alfred Vail của Morse ở Baltimore với nội dung “What hath God Wrought?”, một câu trích từ Kinh Thánh.

Kể từ đây, Morse và Vail liên tục cải tiến Công Nghệ giải điện tín. Một số đường dây điện tín đầu tiên được xây dựng từ năm 1845 đến 1848.

Đến đầu những năm 1900, nhiều người bắt đầu sử dụng những ký tự phổ biến trong mã Morse là “· · · – – – · · ·” thể hiện tín hiệu cầu cứu khẩn cấp khi đi biển. Tín hiệu này tương đương với S-O-S được dùng rộng rãi ngày nay.

Bức ảnh vẽ lại cảnh lớp học đúng hôm mà Gauß tìm ra cách tính tổng nổi tiếng
Bức ảnh vẽ lại cảnh lớp học đúng hôm mà Gauß tìm ra cách tính tổng nổi tiếng

Nhà toán học người Đức Johann Carl Friedrich Gauß (1777 – 1855) nổi tiếng thế giới với bài toán tính tổng 1+ 2+3+4+…+100.

Năm 1784, khi Gauß lên 7, thầy giáo giao cho các học sinh lớp Gauß đầu bài tính tổng các số từ 1 đến 100. Trong khi các bạn làm phép cộng lần lượt theo thứ tự thì Gauß ra đáp án chỉ sau vài giây.

Ông nhận thấy khi “bắt cặp” lần lượt hai số ở đầu và cuối dãy số, chẳng hạn 100+1, 99+2, 98+3… thì tổng đều giống nhau là 101. 100 số thì có 50 cặp, nên lấy 101 nhân 50, kết quả là 5.050.

Sau này, các công thức tính tổng đã được phát triển và được đặt theo tên của ông. Một trong những công thức Gauß điển hình được dạy ở bậc phổ thông ở Việt Nam là tổng của dãy số 1+2+3+…+n = (n x (n+1))/2.

Bức tượng ghi nhận những đóng góp của nhà toán học Gauß
Bức tượng ghi nhận những đóng góp của nhà toán học Gauß – (Ảnh: BRITANNICA).

Những phát minh quan trọng của người Hà Lan

Kính hiển vi được phát minh ở Hà Lan vào thế kỷ 16 hoặc 17

Hà Lan là một quốc gia nhỏ nhưng đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử của những phát minh lớn.

Khái niệm tàu ngầm lần đầu tiên được William Bourne (người Anh) nghĩ ra, nhưng chiếc tàu ngầm có khả năng điều hướng và hoạt động được lại được nhà phát minh người Hà Lan Cornelis Drebbel chế tạo lần đầu tiên vào những năm 1620.

Ảnh: expatrepublic.com

Drebbel làm việc cho Hải quân Hoàng gia Anh và chiếc tàu ngầm đã được thử nghiệm ở sông Thames. Vỏ ngoài của nó bao gồm da bôi mỡ căng trên khung gỗ, có mái chèo dùng để đẩy. Drebbel thiết kế mẫu cuối cùng có 6 mái chèo và có thể chở 16 hành khách, chìm trong nước trong 3 giờ ở độ sâu 4,6 m.

Kính thiên văn được phát minh ở Hà Lan, một năm trước khi Galileo Galilei sử dụng thiết bị đó để quan sát các ngôi sao. Bằng sáng chế do Hans Lippershey và Jacob Metius được nộp năm 1608 là tài liệu đầu tiên về kính thiên văn. Nó hoạt động thông qua các ống đơn giản, với một thấu kính hai mặt lồi và một thấu kính hai mặt lõm.

Kính hiển vi được phát minh ở Hà Lan vào thế kỷ 16 hoặc 17, nhưng chính xác do ai là vấn đề còn tranh cãi. Thường được nhắc đến nhiều nhất là Antoni van Leeuwenhoek, mặc dù một phiên bản đơn giản hơn đã tồn tại từ năm 1595, do Zacharias và Hans Janssen tạo ra.

Kính hiển vi của Van Leeuwenhoek bao gồm một kính lúp chỉ có một thấu kính. Thiết bị này có độ phóng đại lên tới 237 lần kích thước thật, trong khi những thiết bị trước đó chỉ phóng đại được 30 lần.

Kính hiển vi được phát minh ở Hà Lan vào thế kỷ 16 hoặc 17
Kính hiển vi được phát minh ở Hà Lan vào thế kỷ 16 hoặc 17. (Ảnh minh họa).

Người Hà Lan đã có rất nhiều phát minh liên quan đến thị giác. Bài kiểm tra mắt, trong đó người ta phải đọc các dòng chữ cái từ lớn đến nhỏ do Herman Snellen phát minh vào năm 1862, được gọi là biểu đồ Snellen.

Vòi chữa cháy dạng cuộn hiện đại được Jan van der Heyden phát minh vào năm 1673. Ông này cũng đã phát triển một hệ thống bơm tiên tiến. Nhờ đó, lính cứu hỏa có thể nâng cao hiệu quả trong công việc dập tắt những đám cháy lớn .

Năm 1928, kiến trúc sư Jan Wils làm việc tại Sân vận động Olympic ở Amsterdam, đã thiết kế một tòa tháp cao có khói tỏa ra. Wils nhắm tới hiệu ứng của khói hơn là ngọn lửa, vì nó sẽ dễ nhìn thấy hơn vào ban ngày. Sau đó, lửa đã trở thành một phần của Thế vận hội, và đến năm 1936, ngọn lửa mới được sử dụng tại Thế vận hội Berlin.

Đây là một phát minh của tay đua xe đua người Hà Lan Maus Gatsonides. Thiết bị này được kích hoạt bằng hai ống cao su kích đồng hồ bấm thời gian ngay khi bánh xe ô tô va vào chúng. Năm 1958, người ta bắt đầu sản xuất các thiết bị này cho mục đích sử dụng công cộng.

Đĩa CD được phát triển bởi Sony (với sự trợ giúp của Philips) ở Eindhoven. CD đầu tiên trên thế giới được sản xuất vào năm 1979 và bài hát đầu tiên được phát hành trên đĩa CD là The Visitor của ABBA vào năm 1982. Các sản phẩm do Philips hợp tác với các công ty khác phát minh là băng cassette (1963), DVD, đĩa laser và Blu-Ray.

Bluetooth được Tiến sĩ Jaap Haartsen phát minh vào những năm 1990 khi ông làm việc cho công ty Ericsson của Thụy Điển. Haartsen gọi nó là bluetooth để chỉ vị vua Viking Harald Blue Tooth. Ông chỉ nhận được 1.000 euro cho phát minh… Bluetooth cung cấp kết nối không dây tầm ngắn cho điện thoại di động, máy tính và các thiết bị điện tử khác. Ngày nay, có hàng tỷ sản phẩm tích hợp bluetooth để kết nối với các thiết bị không dây khác.

Một trong những đột phá Công Nghệ lớn nhất trong vài thập kỷ qua là chia sẻ dữ liệu không dây và Wi-Fi (được đặt tên theo sự kết hợp giữa HiFi (Độ trung thực cao) và không dây) là trung tâm của bước nhảy vọt vĩ đại đó.

Wi-Fi được một dự án của Hà Lan tạo ra vào năm 1997; Vic Hayes và Cees Links còn được gọi là cha đẻ của WiFi. Trong khi người Hà Lan đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra WiFi, thì Công Nghệ mà chúng ta biết ngày nay thực ra được công ty CSIRO của Australia phát triển.

Năm 1957, Willem Johan Kolff giám sát việc cấy ghép trái tim nhân tạo cho một con chó, giúp nó sống được 90 phút. Kolff thành lập Khoa Nội tạng Nhân tạo tại Đại học Utah và tháng 12/1982, nhóm của ông đã cấy ghép cho bệnh nhân Barney Clark một quả tim nhân tạo, giúp ông này sống trong 112 ngày.

Tim nhân tạo
 Ảnh: expatrepublic.com

Việc bán trái phiếu của các thành phố và bang đã diễn ra từ thế kỷ 13, nhưng nguồn gốc của các sàn giao dịch chứng khoán hiện đại bắt nguồn từ năm 1602. Thị trường chứng khoán doanh nghiệp xuất hiện cùng sự thành lập của Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC).

Năm 1609 cổ đông VOC Isaac Le Maire trở thành người bán khống đầu tiên trên thế giới được ghi nhận. Vài thập kỷ sau, người Hà Lan cũng trải qua vụ sụp đổ thị trường chứng khoán đầu tiên trong lịch sử, với bong bóng hoa Tulip khét tiếng năm 1637.

Nếu tra Google “ngân hàng trung ương đầu tiên trên thế giới” thì Riksbank của Thụy Điển sẽ xuất hiện. Mặc dù vậy, ngày càng nhiều học giả cho rằng vinh dự đó phải thuộc về Ngân hàng Amsterdam, được thành lập vào năm 1609, trước Riksbank sáu thập kỷ.

Thuộc sở hữu hoàn toàn của thành phố Amsterdam, đây là ngân hàng đại chúng đầu tiên cung cấp các tài khoản không thể chuyển đổi thành tiền mặt. Là ngân hàng trung ương thực sự đầu tiên trên thế giới, nó đã mở đường cho nhiều cột mốc quan trọng, bao gồm cả tờ tiền giấy châu Âu đầu tiên vào năm 1661.

Năm 1891, tại Eindhoven, Philips được thành lập và tham gia vào một số phát triển truyền thông quan trọng thông qua các phát minh của Hà Lan. Philips hợp tác với tập đoàn truyền thông Mỹ MCA sản xuất laserdisk vào năm 1969.

Laserdisc là tiền thân của Công Nghệ CD và DVD mà Philips hợp tác với Sony để ra mắt lần lượt vào năm 1979 và 1995. Đổi lại, điều này đã mở đường cho việc tạo ra Công Nghệ BluRay.

Người Hà Lan đã phát minh ra môn thể thao này từ thế kỷ 13. Mùa đông khắc nghiệt của Hà Lan và nhiều tuyến đường thủy nối liền nhau là nơi thử nghiệm lý tưởng cho môn trượt băng tốc độ. Nổi tiếng nhất, cuộc thi trượt băng tốc độ diễn ra ở Friesland, đi qua 11 thành phố lịch sử của tỉnh.

Dao cạo điện

Năm 1939, máy cạo râu điện Philishave đầu tiên của Philips được giới thiệu. Kể từ đó, hơn 400 triệu máy cạo râu đã được bán ra.

Năm 1903, hệ dẫn động 4 bánh lần đầu tiên được áp dụng cho ô tô thương hiệu Spyker của Hà Lan. Ngày nay có thể tìm thấy những chiếc xe bốn bánh ở khắp mọi nơi. Như đã thấy, những phát minh của người Hà Lan đã đóng một vai trò to lớn trong việc định hình thế giới hiện đại.

Phát minh pin oxygen có thể cấy ghép mãi mãi trong cơ thể

Máy điều hòa nhịp tim

Các thiết bị y tế cấy trong cơ thể thường có pin cần thay thế hoặc sạc lại bằng cách nào đó. Có một loại pin oxygen mới có thể loại bỏ nhu cầu phẫu thuật xâm lấn để thay thế pin cho các thiết bị đó.

Máy điều hòa nhịp tim
Máy điều hòa nhịp tim là một trong các thiết bị y tế được cấy vào cơ thể và phải được thay thế khi hết pin. (Ảnh: LV et.al/Chem).

Chứng minh khái niệm của phát minh này đã được trình bày trong một nghiên cứu mới đăng trên tạp chí Chem, một tạp chí tham vấn ý kiến chuyên môn khoa học ở Mỹ. Nghiên cứu này cho thấy loại pin mới có thể cung cấp năng lượng ổn định và tương thích với các hệ sinh học của chuột thí nghiệm.

Về cơ bản, pin oxygen sử dụng nguồn cung cấp oxygen của cơ thể để tạo ra năng lượng. Thí nghiệm cho thấy pin oxygen có thể tạo ra điện áp từ 1,3 đến 1,4 volt với mật độ điện 2,6 μW/cm2.

Hiện tại, công suất này chưa đủ để cung cấp năng lượng cho các thiết bị y tế cấy trong cơ thể, nhưng nó cho thấy pin sử dụng oxygen là có thể chế tạo và hoạt động.

Nhóm nghiên cứu cho biết họ cũng xem xét khả năng ảnh hưởng của pin đến những con chuột thí nghiệm, và nhận thấy rằng các phản ứng viêm cũng như thay đổi về chuyển hóa và sinh sôi tế bào quanh pin đều nằm trong mức an toàn. Những con chuột này không có biểu hiện viêm nào cả.

Pin oxygen có thể loại bỏ nhu cầu phẫu thuật xâm lấn cho các bệnh nhân sử dụng máy trợ tim
Pin oxygen có thể loại bỏ nhu cầu phẫu thuật xâm lấn cho các bệnh nhân sử dụng máy trợ tim và các thiết bị cấy ghép khác bên trong cơ thể (Ảnh: nerthuz/Adobe).

Đối với các sản phẩm phụ của phản ứng hóa học do pin oxygen gây ra, các nhà nghiên cứu cho biết ion muối, ion hydroxide và rất ít hydrogen peroxide do pin tạo ra đều được cơ thể chuột thí nghiệm chuyển hóa dễ dàng và không có ảnh hưởng xấu nào đến gan hoặc thận.

Rõ ràng đây là một tin tức đáng mừng vì những phản ứng hóa học đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho cơ thể nếu cơ thể không thể xử lý được. Nhóm nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng các mạch máu xung quanh pin đã được tái tạo.

Ngoài pin oxygen nói trên, nhóm còn có kế hoạch tiếp tục tìm hiểu để phát minh những loại pin mới, hoặc phương pháp mới để điều trị ung thư, vì họ cho rằng những loại pin này có thể tiêu diệt các khối u ung thư cần nhiều oxygen bằng cách lấy đi oxygen mà các khối u đó cần.

Vẫn còn cần nhiều thời gian để loại pin oxygen mới này đi vào thực tế sử dụng, nhưng chứng minh khái niệm đã khẳng định rằng oxygen trong cơ thể có thể đủ để cung cấp năng lượng cho loại pin này.

Công nghệ thời cổ đại tinh vi hơn cả những gì chúng ta nghĩ, người hiện đại chưa chắc đã ngờ đến

Máy in phát huy hết tiềm năng của mình nhờ nhà phát minh Johannes Gutenberg

Những Công Nghệ tưởng chừng như chỉ có thời hiện đại mới đủ trình độ tạo ra vốn đã xuất hiện từ thời xa xưa, chứng minh khả năng sáng tạo vượt bậc của người cổ đại.

Ngay từ thời cổ đại hay trung đại, đã có những Công Nghệ vô cùng tinh vi xuất hiện khiến cho chính chúng ta, những người sống trong thời kỳ hiện đại cũng phải ngạc nhiên. Có những Công Nghệ, trong số đó là kết quả của kỹ thuật vô cùng tiên tiến, chúng đóng vai trò là nền tảng cho sự phát triển của Công Nghệ sau này. Tuy nhiên, cũng không ít đã bị lãng quên, hoặc thất lạc.

Máy in phát huy hết tiềm năng của mình nhờ nhà phát minh Johannes Gutenberg
Máy in phát huy hết tiềm năng của mình nhờ nhà phát minh Johannes Gutenberg

Vào thế kỷ 11, Công Nghệ in ấn vô cùng phát triển tại Trung Quốc. Nhưng ít ai biết rằng từ thời trung cổ, dưới cống hiến của Johannes Gutenberg, máy in đã được ứng dụng sâu rộng và mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt chữ in. Đây được xem là phát minh Công Nghệ quan trọng nhất của thời trung cổ, đóng vai trò nền tảng của thời kỳ Phục hưng và Khai sáng.

Dụng cụ phức tạp đầu tiên giúp đo khoảng cách giữa các thiên thể.
Dụng cụ phức tạp đầu tiên giúp đo khoảng cách giữa các thiên thể.

Thước trắc tinh là một thiết bị khá phức tạp, có khả năng đo độ nghiêng trên bầu trời của các thiên thể dù là ban đêm hay ban ngày nhằm định vị chúng. Ngoài ra, chúng còn có thể được sử dụng để xác định vĩ độ của người đo và thời gian địa phương.

Mặc dù đã xuất hiện từ thời cổ đại, nhưng đến thời kỳ trung cổ, các nhà thiên văn học đã cải tiến và giúp cho thiết bị này trở nên tinh vi hơn. Đây được xem là những cỗ “máy tính” đầu tiên giúp đo khoảng cách giữa các vật thể, đồng thời cũng là những thiết bị “vô giá” trong việc xác định phương hướng và nghiên cứu thiên văn học.

Dù mới chỉ là những hình thức sơ khai, nhưng hai thiết bị này đã trở thành nền tảng cho sự phát triển hơn nữa của quá trình nghiên cứu thiên văn.

Kỹ thuật mạ vàng của người cổ đại vô cùng tinh vi.
Kỹ thuật mạ vàng của người cổ đại vô cùng tinh vi.

Ngay từ thời cổ đại, Công Nghệ mạ vàng đã được ứng dụng rộng rãi cho nội thất, đặc biệt là nội thất nhà thờ và tượng đài của các nhân vật tôn giáo trên khắp thế giới. Các thợ kim hoàn trong thời kỳ đó đã sử dụng thuỷ ngân để mạ vàng cho nhiều đồ vật. Đáng chú ý, chất lượng mà các sản phẩm làm ra trong thời kỳ này tinh vi đến mức mà nhiều Công Nghệ hiện nay cũng chưa thể vượt qua.

Loại đá giúp người Viking vượt biển không cần la bàn.
Loại đá giúp người Viking vượt biển không cần la bàn.

Truyền thuyết kể lại rằng, những viên đá Mặt trời này đã giúp người Viking di chuyển đúng hướng trên biển mà không cần la bàn. Thậm chí, những nhà khoa học cũng phải bối rối trong thời gian dài vì loại đá này. Câu chuyện về đá Mặt trời từng được xem là một trò lừa bịp hay một câu chuyện ma thuật viển vông, tuy nhiên, những nhà nghiên cứu hiện nay đã tuyên bố rằng viên đá cùng với khả năng thần kỳ của chúng là có thật.

Một phân tích hóa học đã xác nhận rằng viên đá đó là khoáng vật Iceland, hoặc tinh thể canxit.

Người cổ đại là những thợ khoan đáng kinh ngạc.
Người cổ đại là những thợ khoan đáng kinh ngạc.

Có thể nói, tổ tiên của chúng ta chính là những thợ khoan đáng kinh ngạc, và bằng chứng được tìm thấy trên khắp thế giới: đó là những lỗ lớn được khoan trên những nền đá cổ. Thậm chí, con người hiện đại cũng không thể tạo ra những lỗ tròn hoàn hảo đến như vậy nếu không có máy khoan “xịn”. Từ đó thấy rằng, Công Nghệ thời cổ đại có thể tiên tiến hơn cả những gì mà chúng ta nghĩ.

Công nghệ nano xuất hiện trong chiếc cúp Lycurgus khiến các nhà khoa học không giải thích nổi.
Công nghệ nano xuất hiện trong chiếc cúp Lycurgus khiến các nhà khoa học không giải thích nổi.

Chiếc cốc Lycurgus chính là một ví dụ phi thường về việc Công Nghệ nano thời cổ đại thực sự tiên tiến như thế nào. Theo đó, Công Nghệ nano là việc sử dụng vật chất ở quy mô cực kỳ nhỏ (có thể ở dạng nguyên tử, phân tử và siêu phân tử) cho các mục đích công nghiệp. Vì vậy, việc các hạt kim loại có kính cỡ chỉ khoảng 50 nanomet (1000 lần nhỏ hơn hạt muối) xuất hiện trong chiếc ly có từ thời cổ đại đã khiến các nhà khoa học phải “bó tay chịu trói”. Chiếc cốc nổi tiếng này được làm từ thuỷ tinh lưỡng sắc, và có thể đổi màu tuỳ thuộc vào ánh sáng.

Căn phòng cổ có khả năng khuếch đại âm thanh kỳ diệu.
Căn phòng cổ có khả năng khuếch đại âm thanh kỳ diệu.

Vào năm 1902, các công nhân khi thi công xây dựng bể chứa nước ở Malta đã tình cờ phát hiện hầm mộ Hypogeum (trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là dưới lòng đất). Không chỉ gây bất ngờ cho giới khoa học bởi cấu trúc mê cung phức tạp, di tích này còn hấp dẫn sự quan tâm của mọi người nhờ vào một căn phòng đặc biệt có tên là “Oracle Chamber” (hay Phòng tiên tri). 

Tuy nhiên, năng lực thực sự của nó không phải khả năng tiên tri như trong truyền thuyết, mà là một thứ khác.

Một trong những tính năng độc đáo của căn phòng này là khả năng khuếch đại âm thanh lên gấp nhiều lần. Dù chưa được chứng minh nhưng dựa vào những nét chạm khắc đá vôi độc đáo trên tường, người ta tin rằng căn phòng này vốn được sử dụng bởi một nhà tiên tri.

Những phát minh vĩ đại nhất thế giới trong năm 2022

Nhà in 3D

Thế giới đã phải đối mặt với nhiều cuộc khủng hoảng vào năm 2022 và việc vượt qua những cuộc khủng hoảng lớn nhất trong số đó sẽ là một thách thức to lớn và lâu dài.

Quỹ Liên Hợp Quốc đã liệt kê một số vấn đề cấp bách nhất, bao gồm các chủ đề từ nghèo đói đến ô nhiễm, môi trường đến bình đẳng. Mối quan tâm lớn nhất là bảo vệ môi trường và giải quyết tình trạng đói nghèo toàn cầu, cả hai vấn đề này đều tác động đến hàng tỷ người trên thế giới mỗi ngày.

Nhưng tất cả chúng đều là động lực thúc đấy nhân loại phát triển và là nguồn cảm hứng để con người đã phát minh ra những thứ để giải quyết vấn đề kể từ khi con người tồn tại trên Trái Đất. Đã có một số phát minh trong quá khứ, có niên đại hàng thiên niên kỷ, cách mạng hóa lối sống của chúng ta và thay đổi thế giới theo đúng nghĩa đen.

Mặc dù không phải mọi vấn đề đều có thể đưa ra những giải pháp đơn giản và dễ dàng, nhưng không năm nào trôi qua mà không có những cải tiến mới và ngày càng ấn tượng.

Bên cạnh những điều mới lạ và những điều nhỏ nhặt giúp cuộc sống hàng ngày của mọi người trở nên dễ dàng hoặc thú vị hơn, một số phát minh mới và vĩ đại đã được tạo ra vào năm 2022 có thể có tác động đáng kể đến thế giới.

Một số trong số này thoạt đầu có vẻ không quan trọng, nhưng với thời gian và nỗ lực, bất kỳ trong số chúng đều có thể phát triển thành điều gì đó thực sự đáng chú ý.

Nhà in 3D
House Zero được thiết kế theo cách kết nối tốt hơn giữa con người với thiên nhiên và thế giới bên ngoài.

Vô gia cư là một vấn đề toàn cầu đang gia tăng và theo Liên Hợp Quốc, vào năm 2020, ước tính có khoảng 1,6 tỷ người trên khắp thế giới là người vô gia cư hoặc sống trong “điều kiện nhà ở thiếu thốn”. Đây là một vấn đề nan giải ngay cả ở những nơi giàu có hơn trên thế giới. Tờ New York Times báo cáo rằng tình trạng thiếu nhà ở đang ảnh hưởng đến ngày càng nhiều người trên khắp Hoa Kỳ. Một cách hiệu quả để giải quyết vấn đề này là làm cho nhà ở trở nên rẻ hơn và xây dựng nhanh hơn.

House Zero được xây dựng vào năm 2022 bởi một công ty tên là ICON. Thay vì xây từng viên gạch, nó được in 3D. Như Dezeen giải thích, House Zero được thiết kế theo cách kết nối tốt hơn giữa con người với thiên nhiên và thế giới bên ngoài, một nguyên tắc được gọi là thiết kế sinh học, sử dụng các thiết kế tròn trịa và trông hữu cơ để cải thiện luồng không khí. Các bức tường được làm từ vật liệu có tên là Lavacret, vừa có tác dụng cách nhiệt vừa bảo vệ khỏi các yếu tố thời tiết. Được xây dựng chỉ trong 10 ngày, toàn bộ quá trình in nhà 3D cũng có thể giúp xây dựng nhà rẻ hơn, với các máy in vận hành tại chỗ bằng vật liệu thô.

Làm mát các đảo nhiệt đô thị
Sơn phản xạ ánh sáng Mặt trời giúp ngăn nhiệt tích tụ trong môi trường thành phố.

Khi biến đổi khí hậu trở thành mối quan tâm cấp bách hơn bao giờ hết, một vấn đề nghiêm trọng đối với các khu vực xây dựng là hiệu ứng đảo nhiệt đô thị.

EPA giải thích rằng điều này là do cách các vật liệu đô thị như nhựa đường và bê tông hấp thụ ánh sáng Mặt Trời, lưu trữ và tỏa ra nhiều nhiệt hơn so với cảnh quan nông thôn. Điều này gây ra các điểm nóng cục bộ ở các thành phố, với nhiệt độ cao hơn tới 7°F so với vùng đất xung quanh.

Tác động của các đảo nhiệt này cũng đề cập đến vấn đề bình đẳng, với một nghiên cứu trên tạp chí Nature giải thích các cộng đồng nghèo và yếu thế sẽ bị ảnh hưởng nhiều như thế nào bởi các đảo nhiệt và những mối nguy hiểm mà điều này có thể gây ra. Theo thống kê, những người bị ảnh hưởng có nguy cơ tử vong liên quan đến nhiệt cao hơn so với thời tiết khắc nghiệt khác như bão hoặc lũ lụt.

Một cải tiến có thể giúp giải quyết vấn đề này đã được phát triển bởi một công ty có tên StreetBond, bao gồm sơn phản xạ ánh sáng Mặt Trời tốt hơn, giúp ngăn nhiệt tích tụ trong môi trường thành phố.

EcoWatch báo cáo rằng lớp sơn đầy màu sắc dựa trên epoxy acrylic và phản chiếu cả phần nhìn thấy và hồng ngoại của ánh sáng Mặt Trời. Sơn đã được sử dụng ở Los Angeles, dẫn đến nhiệt độ bề mặt mát hơn tới 12°F so với những nơi khác. Với mùa hè nóng hơn và các đợt nắng nóng ngày càng thường xuyên hơn, việc nỗ lực giảm nhiệt độ ở các thành phố lớn như LA có thể thực sự giúp cứu sống nhiều người.

Sơn có màu sắc rực rỡ cũng được sử dụng trong các bức tranh tường trên đường phố và các khu vực cộng đồng như sân chơi cũng làm cho các khu dân cư trông sáng sủa hơn.


Chiếc máy bay điện chở khách cỡ nhỏ này chạy bằng động cơ điện.

Trong một thế giới mà mọi người ngày càng ý thức hơn về biến đổi khí hậu và lượng khí thải carbon, việc đi lại bằng đường hàng không đang trở thành một vấn đề gây tranh cãi vì đây là một nguồn carbon dioxide đáng chú ý trong khí quyển.

Theo Nhóm Hành động Vận tải Hàng không, khoảng 2,1% tổng lượng khí thải carbon đến từ ngành hàng không. Trong nỗ lực làm cho việc di chuyển bằng đường hàng không trở nên thân thiện với môi trường hơn, năm 2022 đã chứng kiến những chuyến bay thử nghiệm thành công của một chiếc máy bay chạy hoàn toàn bằng điện.

Được đặt tên là Alice theo tên nhân vật chính trong “Alice ở xứ sở thần tiên”, chiếc máy bay điện chở khách cỡ nhỏ này chạy bằng động cơ điện, như báo cáo của GeekWire. Nó được thiết kế và tạo ra bởi một công ty tên là MagniX, với mục tiêu là điện khí hóa việc di chuyển bằng đường hàng không với các hệ thống động cơ đẩy không đốt cháy bất kỳ nhiên liệu hydrocacbon nào.

Chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của Alice diễn ra trong thời gian ngắn, chỉ 8 phút và ở độ cao 3.500 feet, nhưng hy vọng nó sẽ mở đường cho một loại máy bay chở khách hoàn toàn mới. Mục tiêu hiện tại là chế tạo máy bay hạng nhẹ tầm ngắn, nhưng rất có thể điều này cuối cùng có thể được nhân rộng khi Công Nghệ liên quan tiếp tục được cải thiện.

Ngoài máy bay, MagniX cũng đã thử nghiệm thành công một chiếc trực thăng điện vào năm 2022, theo báo cáo của Vertical. Có lẽ trong tương lai gần, du khách sẽ có thể bắt các chuyến bay mà không cần phải lo lắng quá nhiều về sự góp phần của họ vào biến đổi khí hậu.

Robot có cảm giác chạm
Robot này đủ nhạy cảm để thậm chí có thể “cảm nhận” bề mặt của vật thể.

Robot thường khiến người ta liên tưởng đến những cỗ máy kim loại không có cảm giác, nhưng các nhà nghiên cứu tại MIT đang bận rộn phát triển những người máy “nhạy cảm hơn”.

Theo MIT News, robot mới nhất được công bố vào năm 2022 là “robot mềm” có thể tác dụng một lượng lực cẩn thận, cho phép chúng nắm bắt và sử dụng các công cụ. Trong khi những robot đời đầu sẽ sử dụng các công cụ gắn liền với chúng, thì những sáng tạo mới nhất thậm chí có thể khiến co robot cẩn thận cầm bút và viết. Khi robot nắm lấy một vật thể, chúng sử dụng một hệ thống cảm biến để nhận phản hồi xúc giác – đây là một cách nói kỹ thuật rằng robot có thể cảm nhận một cách hiệu quả những gì nó đang giữ để đánh giá mức độ áp lực mà nó cần sử dụng.

Điều này xảy ra sau một robot cảm ứng khác được báo cáo vào đầu năm. Theo The Robot Report, đây là một bộ gắp robot được thiết kế để trở nên khéo léo hơn. Được làm từ silicone và acrylic, nó sử dụng một camera nhỏ để phát hiện cách các vật liệu kẹp mềm được ép khi nó cầm một vật thể. Đáng chú ý, robot này đủ nhạy cảm để thậm chí có thể “cảm nhận” bề mặt của vật thể, chọn ra những chi tiết rất nhỏ như từng hạt trên bề mặt quả dâu tây.

Cùng với việc được sử dụng để chế tạo robot, những đổi mới như thế này có khả năng được sử dụng trong các bộ phận giả của cơ thể con người. NPR giải thích rằng việc tạo ra chân tay giả có cảm giác chạm vẫn là mục tiêu chính của các nhà nghiên cứu, làm cho tay giả trở nên trực quan hơn đối với người cụt tay bằng cách trả lại cho họ cảm giác chạm.

Ánh sáng từ nước biển
Thiết bị này có thể lấy nửa lít nước biển hoặc nước muối và có thể phát sáng trong 45 ngày.

Có thể khó tin khi đọc một vài bài báo trên internet, chúng ta có thể biết rằng một số lượng đáng kinh ngạc trên thế giới đang phải sinh sống mà không có điện.

Theo IEA, có khoảng 770 triệu người trên thế giới đang phải sống mà không có điện vào năm 2022, họ chủ yếu sống ở phía nam bán cầu. Một cải tiến vào năm 2022 có thể giúp cung cấp điện cho những người hiện không có điện là nhờ công ty E-Dina của Colombia. Công ty này đã phát triển một chiếc đèn lồng có thể tạo ra ánh sáng chỉ bằng nước biển.

Được đặt tên là WaterLight, thiết bị nhỏ thông minh này có thể lấy nửa lít nước biển hoặc nước muối và có thể phát sáng trong 45 ngày. Như Very Compostable giải thích, năng lượng đến từ phản ứng điện hóa giữa nước muối và điện cực magie bên trong WaterLight, tạo ra dòng điện. Ngoài việc được làm hoàn toàn từ vật liệu tái chế, những chiếc đèn lồng còn có thể cung cấp năng lượng để sạc các thiết bị điện tử nhỏ. Nó cũng có tuổi thọ ấn tượng, kéo dài trong 5.600 giờ, lâu hơn bóng đèn sợi đốt hoặc halogen.

Đối với những người không sống gần biển, Dezeen lưu ý rằng trong trường hợp khẩn cấp, WaterLight thậm chí có thể tạo ra năng lượng từ nước tiểu.

Nhựa bền vững
Được đặt tên là AirCarbon, đây là vật liệu carbon âm tính.

Nhựa sử dụng một lần chiếm một lượng lớn rác thải trên thế giới. Các vật dụng dùng một lần, từ chai nước uống đến khăn ướt, thường bị thải ra môi trường và theo Ủy ban Châu Âu, các vật dụng bằng nhựa dùng một lần chiếm khoảng 70% lượng rác thải ra biển khắp Châu Âu.

Điều này không chỉ không bền vững mà còn tiêu tốn rất nhiều nguyên liệu thô đến từ ngành công nghiệp dầu mỏ. Các nhà nghiên cứu, cả công nghiệp và học thuật, đã nghiên cứu các giải pháp thay thế thân thiện với môi trường hơn trong một thời gian và một loại nhựa mới đầy hứa hẹn đã được công bố vào năm 2022.

Được đặt tên là AirCarbon, đây là vật liệu carbon âm tính. Nói cách khác, quy trình sản xuất của nó sẽ thu được nhiều carbon dioxide hơn là thải ra bên ngoài môi trường.

Được tạo bởi Newlight Technologies, Sustainability Times giải thích rằng AirCarbon được sản xuất đặc biệt để thay thế cho nhựa sử dụng một lần truyền thống, với mục đích thay thế các vật dụng hàng ngày như dao kéo và ống hút bằng nhựa.

Nó được tạo ra từ khí metan và carbon dioxide và thay vì được tổng hợp bằng loại phản ứng hóa học truyền thống, và nó được tạo ra bởi các vi khuẩn đến từ đại dương. Plastics News giải thích thêm rằng một số vi khuẩn sống trong tự nhiên thậm chí sẽ có thể sử dụng loại nhựa này làm thức ăn sau khi nó bị loại bỏ, khiến nó có thể phân hủy sinh học. Newlight rõ ràng cũng rất nghiêm túc về nhựa bền vững của họ, gần đây đã có những động thái bắt đầu sản xuất loại nhựa này trên quy mô lớn hơn, nhằm giúp giảm cả khí nhà kính và rác thải nhựa trong quá trình này.

Top 5 phát minh từ thế kỷ 18 làm thay đổi bộ mặt của nhân loại

Scotland James Watt và phát minh động cơ từ hơi nước.

Những phát minh đã mang đến đột phá, cũng như sự gia tăng về năng suất lao động trong cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất.

Chúng ta đang bước vào cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4, hay còn gọi là cuộc cách mạng số, với những Công Nghệ hiện đại, hứa hẹn sẽ làm thay đổi hình thái kinh tế – xã hội của nhân loại.

Thế nhưng, tất cả những tiến bộ ấy có lẽ đã không trở thành hiện thực, nếu như nhân loại không trải qua một bước chuyển đổi vĩ đại kéo dài từ giữa thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19.

Trong thời kỳ này, thế giới đã sản sinh ra hàng loạt các nhà bác học nổi tiếng như Isaac Newton, James Watt, hay Thomas Edison với những phát kiến vĩ đại trong toán học, vật lý, hóa học… tạo ra nền tảng tri thức cho các tiến bộ trong kỹ nghệ sản xuất.

Dưới đây là 5 trong số các phát minh hàng đầu, đã mang đến những đột phá, cũng như sự gia tăng về năng suất lao động, góp phần đưa nhân loại tiến đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Sáng chế bởi: Scotland James Watt

Scotland James Watt và phát minh động cơ từ hơi nước.
Scotland James Watt và phát minh động cơ từ hơi nước.

Động cơ hơi nước là động cơ nhiệt, thực hiện công việc cơ học khi sử dụng hơi nước chuyển hóa thành cơ năng. Nó còn được gọi là động cơ đốt ngoài, nhằm phân biệt với động cơ đốt trong sau này.

Trước khi động cơ hơi nước được chế tạo, ngành vận tải vẫn hoạt động dựa trên xe ngựa; còn ngành công nghiệp nặng như khai thác, chế tạo… vẫn sử dụng lao động là sức người. Phương pháp này nhìn chung kém hiệu quả, và tồn tại nhiều mặt trái.

Với việc tạo ra động cơ hơi nước đầu tiên, Scotland James Watt đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của nhân loại nói chung, và nước Anh nói riêng. Tại đó, con người không còn là “nguồn cung cấp năng lượng” nữa, mà trở thành người điều hành các cỗ máy có khả năng làm việc hiệu quả hơn.

Năm 1860, Lancashire – một thành phố tại Anh thậm chí đã đóng góp số sản lượng vải bông bằng một nửa trên thế giới. Anh được công nhận là nước công nghiệp mạnh nhất, giàu nhất, và thường được gọi bằng cái tên “công xưởng của toàn thế giới”.

Những phiên bản cải tiến sau này của động cơ hơi nước giúp nó lần lượt thay thế một lượng lớn nhân công tại các nhà máy, tạo ra đầu máy tàu lửa, thuyền chở hàng… và tuabin hơi nước.

Sáng chế bởi: Nicolas Appert

Công nhân gắn mã và hàn lon thực phẩm ở Pháp vào năm 1870.
Công nhân gắn mã và hàn lon thực phẩm ở Pháp vào năm 1870.

Nhìn vào căn bếp hiện đại, chúng ta có thể thấy một phát minh đặc biệt hữu ích đã được sáng chế từ Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất. Đó chính là Công Nghệ bảo quản thực phẩm.

Vào năm 1795, một đầu bếp người Pháp tên là NicolaAppert bị thu hút bởi một giải thưởng được trao cho người có thể tìm ra cách bảo quản thực phẩm để vận chuyển trong nhiều ngày.

Thời bấy giờ, thực phẩm có thể được bảo quản thông qua các phương pháp như sấy khô và lên men, nhưng chúng lại không giữ được hương vị, và cũng không thực sự hiệu quả 100%.

Appert đã dành 14 năm để giải câu đố này. Rốt cuộc, ông đã nghiên cứu thành công kỹ thuật bảo quản thực phẩm chín bằng cách cho vào lọ, rồi đậy kín lại.

Sau đó, ông đun sôi lọ này trong nước nhằm tạo ra một lớp chân không, giúp thực phẩm tránh tiếp xúc trực tiếp với oxy trong không khí, qua đó bảo quản được lâu hơn.

Sáng chế bởi: Samuel Morse

Một máy điện báo sử dụng mã Morse để liên lạc.
Một máy điện báo sử dụng mã Morse để liên lạc.

Trước thời đại của điện thoại thông minh và máy tính xách tay, con người vẫn sử dụng Công Nghệ để liên lạc nhờ một phát minh được gọi là điện báo.

Điện báo được sáng chế vào những năm 1830 bởi Samuel Morse. Lúc bấy giờ, Morse phát hiện ra rằng ông có thể liên lạc với những người bạn thông qua truyền đi tín hiệu của dòng điện bằng dây nối.

Thấy được sự thú vị của phương pháp này, ông đã sáng chế hẳn một bảng mã sử dụng dấu chấm và dấu gạch ngang, còn gọi là mã Morse để tiện cho việc gửi đi các thông điệp.

Cách thức thực hiện rất đơn giản, đó là chỉ cần tắt, rồi bật công tắc điện theo đúng “nhịp độ”, nhằm truyền tải một thông điệp ngắn, đã được quy ước từ trước. Trong đó, thời lượng của dấu gạch ngang dài gấp ba lần so với dấu chấm.

Ngoài việc dùng dòng điện, mã Morse còn có thể áp dụng cho sóng vô tuyến, ánh sáng nhìn thấy hoặc sóng âm thanh.

Sự phát triển mạnh mẽ vào những năm 1840 của phương pháp này thậm chí đã giúp tạo nên dịch vụ tin tức điện tử đầu tiên tại Mỹ, Associated Press. Phát minh của Morse cũng giúp kết nối liên lạc giữa Mỹ và châu Âu – một kỳ tích toàn cầu vào thời điểm bấy giờ.

Sáng chế bởi: Thomas Edison

Máy quay đĩa là một trong những phát minh vĩ đại của Thomas Edison.
Máy quay đĩa là một trong những phát minh vĩ đại của Thomas Edison.

Tính đến khi Edison giới thiệu sáng chế của mình, chúng ta chưa có cách nào lưu lại lời bài hát, hay dù chỉ là một đoạn nhạc. Cách duy nhất để thưởng thức âm nhạc là đi nghe trực tiếp.

Thomas Edison đã thay đổi điều này với một ý tưởng rất đơn giản, nhưng vô cùng hiệu quả. Bí quyết là sử dụng một cây kim để tạo nên các rãnh trên đĩa nhạc dựa vào độ biến thiên của tín hiệu âm thanh.

Ở máy quay đĩa, người ta xử lý âm thanh theo cách ngược lại, tức là chuyển hóa các xung động cơ học thành tín hiệu âm thanh loại nhỏ, rồi được khuếch đại lên qua loa.

Sáng chế bởi: Louis Daguerre

Một trong những bức ảnh được chụp vào năm 1838 bởi nhà phát minh Louis Daguerre
Một trong những bức ảnh được chụp vào năm 1838 bởi nhà phát minh Louis Daguerre cho thấy khung cảnh một con phố tại Pháp.

Mặc dù chiếc máy ảnh đầu tiên đã ra đời từ khá lâu, song mãi tới những năm 30 của thế kỷ 18, khái niệm về nhiếp ảnh mới thực sự ra đời.

Tại thời điểm ấy, Louis Daguerre – một nhà vật lý người Pháp cùng với cộng sự của ông – Josep Nicéphore, được xem là những người đầu tiên phát minh ra daguerreotype, hình thức nhiếp ảnh hiện đại đầu tiên.

Đây là một quá trình dương bản trực tiếp, nhằm tạo ra hình ảnh có độ chi tiết cao trên một tấm đồng được mạ một lớp bạc mỏng, và đánh bóng như gương. Điều đặc biệt của phương pháp này là nó không cần sử dụng tới âm bản.

Sau khi tiếp xúc với ánh sáng, tấm đồng được hơ trên thủy ngân nóng cho đến khi các hình ảnh xuất hiện. Để cố định chúng, Daguerre nhúng tấm đồng vào dung dịch natrthiosunfat, và sau đó mài bằng vàng clorua.

Phát minh của Daguerre được xem là một đóng góp lớn cho nền văn hóa đương đại, khi tạo ra cơ hội cho tầng lớp trung lưu có được những bức chân dung với giá cả phải chăng.